Chuyên gia Deloitte: Trước đây ai có tiền là 'vua', nhưng bây giờ 'data is king'
Sáng nay (10/5), Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance đã tổ chức tọa đàm và ra mắt Đặc san Toàn cảnh Tài chính số.
Phát biểu mở đầu tọa đàm, ông Hoàng Anh Minh, Phó chủ tịch VFCA, Tổng biên tập Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance, cho rằng, trong thời đại số hóa ngày nay, dữ liệu được coi là "dầu mỏ" mới, là nguồn tài nguyên quý giá mà mọi tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân đều đang chạy đua để khai thác. Việc xây dựng và quản lý hệ thống dữ liệu không chỉ là cơ sở để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, mà còn là yếu tố quyết định trong việc định hình và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân.
Trong ngành tài chính - ngân hàng, việc sử dụng dữ liệu đã và đang mở ra một loạt các cơ hội mới. Từ việc phân tích dữ liệu để dự báo xu hướng thị trường đến tối ưu hóa quy trình dịch vụ tài chính, dữ liệu đang đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động và cung cấp dịch vụ tốt nhất cho khách hàng.
Tuy nhiên, cơ hội song hành cùng thách thức. Việc thu thập, lưu trữ và bảo mật dữ liệu đang là một trong những vấn đề cấp bách đối với các tổ chức tài chính. Đồng thời, việc đảm bảo tính minh bạch và tuân thủ quy định pháp luật cũng là một thách thức lớn đối với việc sử dụng dữ liệu trong ngành tài chính – ngân hàng.
Chia sẻ tại sự kiện, ông Đỗ Danh Thanh, Phó Tổng giám đốc Tư vấn chuyển đổi số và An ninh mạnh - Deloitte Việt Nam, cho biết dữ liệu không phải bây giờ mới có, mà nhờ sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, giúp xử lý được lượng dữ liệu rất lớn nên bây giờ chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của dữ liệu.
"Trước đây ai có tiền là vua, nhưng bây giờ 'data is king' ("dữ liệu là vua") - ông Thanh khẳng định.
Liên quan tới thực trạng lộ lọt dữ liệu cá nhân ở Việt Nam, ông Thanh cho biết tình trạng này rất nổi trội và được nói nhiều trên các phương tiện truyền thông. Số liệu thống kê cho thấy tin tặc tấn công liên tục khoảng 1.000 - 1.2000 vụ/tháng để thu dữ liệu, quy mô ngày càng lớn.
Một trong những điển hình của câu chuyện này trước đây xảy ra trong ngành hàng không là những thông tin quan trọng ảnh hưởng tới người dùng, rồi từ hàng không tới tài chính ngân hàng – một trong những ngành ứng dụng chuyển đổi số nổi bật nhất (significant), sau này đến xăng dầu. Những vụ tấn công dữ liệu này làm ảnh hưởng tới tiền bạc, danh tiếng của doanh nghiệp và niềm tin khách hàng.
Theo ông Thanh, bảo đảm về công nghệ chỉ là 1 trong 4 trụ cột trong việc bảo mật dữ liệu. (4 trụ cột bao gồm: 1 là con người, 2 là quy trình, 3 là công nghệ và 4 là chiến lược). Doanh nghiệp chỉ bỏ tiền mua công nghệ nên không thể bảo đảm về mặt chiến lược.
"Chúng ta chưa chú trọng vào những khía cạnh mà trước nay chúng ta chỉ coi là 'đánh bóng', ví dụ như ISO. Còn thực ra, những cái danh hiệu đó hiệu quả không thì nó phải là quá trình, chứ không phải chúng ta bỏ rất nhiều tiền thì chúng ta được bảo vệ", ông Thanh nói.
Cũng theo vị chuyên gia này, một thực trạng khác trong việc bảo mật dữ liệu tại các doanh nghiệp Việt Nam là việc doanh nghiệp không có dữ liệu "back-up" để xử lý nhanh vấn đề.
"Trước kia tôi từng làm với doanh nghiệp Nhật, ông chủ của họ đều yêu cầu back-up dữ liệu vào cuối ngày. Quay trở lại với Việt Nam chúng ta, các doanh nghiệp chứng khoán, bảo hiểm, chứa rất nhiều dữ liệu khách hàng mà không có backup và không đưa ra được phương án khắc phục sự cố sau" thảm hoạ".", ông Thanh chia sẻ và cho rằng: "Doanh nghiệp phải luôn cảnh giác với việc bị ảnh hưởng bởi lỗ hổng để giảm thiểu tối đa hệ quả".
Về phía doanh nghiệp, ông Nguyễn Tiến Sỹ - Giám đốc Ban Chăm sóc khách hàng, Khối Tài chính số - EVNFinance, chia sẻ kể từ khi thành lập, EVN Finance luôn tuân thủ yêu cầu của pháp luật về an ninh mạng, bảo vệ dữ liệu. Trên thực tế, công ty đã triển khai chương trình chuyển đổi số từ năm 2020. Từ đó đến nay, đây vẫn luôn được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của EVN Finance.
"Nếu như tại các công ty tài chính thông thường, khách hàng khi đi vay sẽ phải kê khai thông tin vào bảng biểu, sau đó thông tin sẽ chuyển qua nhiều bộ phận chuyên môn khác nhau để xử lý, thì tại EVN Fiance, với big data, khách hàng chỉ cần 3-5 phút cho tất cả các khâu tải app, kê khai và dược phê duyệt", ông Sỹ nói.
Theo ông Nguyễn Tiến Sỹ, đối với doanh nghiệp, có hai lợi ích khi ứng dụng công nghệ và dữ liệu big data. Trước hết là mang lại sự nhanh chóng, tiện lợi cho khách hàng. Còn về phía doanh nghiệp, đó là sự nâng cao năng suất lao động, giúp phục vụ khách hàng nhanh hơn.
Ông Sỹ cho biết: "Trong khi các công ty tài chính, thông thường cần đến bộ phận thẩm định để thẩm định hồ sơ của khách hàng có đủ điều kiện hay không thì với big data, EVN Finance có thể thực hiện các khâu này trên hệ thống, kiểm tra xem hồ sơ của khách hàng có đảm bảo hay không từ dữ liệu. Ví dụ như việc phân tích thông tin thu nhập của khách hàng, chúng tôi đối chiếu với thu nhập vùng theo số liệu Tổng cục Thống kê". Điều này, theo ông Sỹ, đã làm tăng số lượng khách hàng tăng lên 4 lần, trong khi số lượng nhân sự giảm 40%.
Ông Sỹ nhấn mạnh: "Ứng dụng công nghệ giúp năng suất lao động tăng, trải nghiệm khách hàng tăng. Đối với doanh nghiệp, big data chính là tiền".
Chia sẻ về kinh nghiệm hoạt động trong ngành khai thác dữ liệu, TS Lê Xuân Nghĩa cho biết công ty của ông đã từng thực hiện các dự án tái cấu trúc dữ liệu cho 1 ngân hàng quốc doanh lớn, cũng như bán dữ liệu được AI phân loại cho khách hàng là ngân hàng để kiểm định khoản vay, song đều không thành công vì khách hàng đến cuối cùng không nhìn nhận rõ lợi ích của số hoá và AI.
Theo ông Nghĩa, "ngay tại 1 nơi sử dụng nhiều về dữ liệu về số như ngân hàng mà cái nhìn về lĩnh vực này còn hạn chế", nên đây là điều chúng ta cần lưu ý. "Chúng ta chưa phát triển được đội ngũ về số hoá, AI trong tương lai. Thế giới bây giờ cũng đều là AI, máy bay, tàu đều là robot, là AI, nên trong thực tiễn, ta thấy người Việt rất xem thường nhau về AI, về khoa học dữ liệu và quản lý dữ liệu".
Vị chuyên gia này cho rằng, AI có thể được sử dụng ở nhiều lĩnh vực. Song khó khăn của AI tại Việt Nam là pháp lý chưa rõ ràng, truyền thông yếu. Người hiểu biết phần lớn là người chưa có quyền, người không hiểu biết lại là người có tiền có quyền. Đấy là điều vô cùng tệ hại và khiến tốc độ số hoá chậm.
“Không chỉ vấn đề pháp lý và còn có vấn đề về nhãn quan về số hoá. Tôi xông vào nghề này, giờ đây là công ty có cơ sở dữ liệu lớn nhất (76 triệu dữ liệu nhờ tham gia đề án 06. Có 1 đống dữ liệu như vậy mà muốn biến thành tiền không hề dễ”, ông Nghia chia chia sẻ.
Theo ông Nghĩa, trong khi nhiều đơn vị nước ngoài chào mua, công ty ông lại không thể bán vì đó được coi là bí mật quốc gia. Không thiếu nhân lực, không thiếu dữ liệu nhưng không thể biến dữ liệu thành tiền ở Việt Nam để phục vụ chính nền kinh tế của mình.
Xem thêm tại cafef.vn