Tài chính xanh – Giải pháp thúc đẩy kinh tế tăng trưởng theo hướng bền vững

Thực trạng và thách thức

Mở đầu phiên tham luận tại diễn đàn Tài chính xanh 2024, TS. Cấn Văn Lực - Chuyên gia kinh tế, Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia cho rằng, tài chính xanh đang là xu hướng tất yếu, trở thành một yếu tố then chốt của hệ thống tài chính toàn cầu.

Ông Lực chỉ rõ, biến đổi khí hậu đang là một vấn đề được quan tâm hàng đầu trên thế giới; nhiều chương trình hành động để hạn chế ảnh hưởng của biến đổi khí hậu như: chuyển đổi các ngành công nghiệp đen/xám sang công nghiệp xanh, tăng cường các quy định về môi trường, xã hội, quản trị (ESG) đối với các dự án, hay cam kết tại Hội nghị COP26, COP27 và COP28.

Có nhiều chương trình đòi hỏi nguồn vốn lớn, như Davos 2019: Chuyển đổi xanh là cơ hội đầu tư có giá trị tới 50 nghìn tỷ USD; IFC: cơ hội đầu tư lên tới 23 nghìn tỷ USD tại các dự án thân thiện môi trường chỉ riêng ở 21 quốc gia mới nổi trong giai đoạn 2016-2030; Nhu cầu lên tới 18 nghìn tỷ USD dành riêng cho xây dựng xanh tại châu Á tới năm 2030.

Ông Lực cho biết, theo Bloomberg, trong năm 2023, tổng dư nợ thị trường toàn cầu ước đạt 4,16 nghìn tỷ USD (theo Morningstar). Tổng giá trị trái phiếu bền vững (xanh, xã hội, bền vững và liên kết bền vững) phát hành năm 2023 đạt 939 tỷ USD, tăng 3% so với năm 2022.

Còn ở Việt Nam, tính đến ngày 31/3/2024, dư nợ tín dụng xanh đạt gần 637 nghìn tỷ đồng (tại 47 tổ chức tín dụng - TCTD), chiếm tỷ trọng khoảng 4,5% tổng dư nợ toàn nền kinh tế.

Dư nợ được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đạt khoảng 2,9 triệu tỷ đồng, chiếm hơn 21% tổng dư nợ hệ thống TCTD và tăng hơn 20% so với cùng kỳ 2023.

Trái phiếu xanh, giai đoạn 2016-2020, có tổng cộng 4 đợt phát hành trái phiếu xanh, giá trị 284 triệu USD. Giai đoạn 2019-2023, Việt Nam đã phát hành khoảng 1,16 tỷ USD trái phiếu xanh (trong đó, EVNFinance phát hành 1.725 tỷ đồng năm 2022; BIDV phát hành 2.500 tỷ đồng năm 2023).

TS. Cấn Văn Lực cũng chỉ rõ, tài chính xanh tại Việt Nam vẫn còn nhiều thách thức, cụ thể:

Một là, chưa có khung pháp lý, chính sách tổng thể, nhất quán liên quan đến tài chính xanh (quy định về phân loại xanh và xác nhận dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh...).

Hai là, việc thẩm định, đánh giá và quản lý rủi ro môi trường, xã hội còn gặp nhiều khó khăn do đội ngũ chuyên gia, nhân sự trong lĩnh vực này tại Việt Nam còn khá hạn chế.

Ba là, thiếu cơ chế phối hợp và ưu đãi cho các hoạt động tài chính xanh (ưu đãi thuế, phí; về hạn mức tín dụng; về lãi suất...).

Bốn là, các dự án xanh thường có kỳ hạn dài (có thể lên đến 20 năm), chi phí đầu tư lớn... trong khi các nguồn vốn cho vay của các TCTD thường là vốn huy động ngắn, trung hạn.

Năm là, nhận thức của thị trường đối với ESG, tài chính xanh và bền vững chưa cao và chưa đồng đều.

Và cuối cùng là rất nhiều công ty niêm yết chưa có sự chủ động trong việc đưa ESG vào định hướng kinh doanh và quản trị doanh nghiệp; việc phát hành cổ phiếu xanh hầu như chưa có và báo cáo phát triển bền vững còn hạn chế.

Trong phiên tham luận, ông Nguyễn Bá Sơn - Phó Giám đốc Ban Kinh doanh vốn và tiền tệ, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV cũng chia sẻ, khó khăn thách thức hiện nay là quy định về phân loại xanh (Taxonomy) của Việt Nam chưa được ban hành. Nhận thức của thị trường đối với trái phiếu xanh chưa đồng đều. Sự tự nguyện thực hiện chuyển đổi xanh của doanh nghiệp hạn chế; chính sách hỗ trợ chưa đủ lớn để thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia chuyển đổi xanh.

Giải pháp thúc đẩy thị trường vốn xanh và phát triển bền vững của doanh nghiệp

Các chuyên gia kinh tế, đại diện cơ quan quản lý, Sở giao dịch chứng khoán, các ngân hàng đã đưa ra thực trạng, tiềm năng và thách thức về thị trường vốn xanh tại Việt Nam.

Ông Vũ Chí Dũng - Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cĩng cho rằng, thách thức phát triển thị trường vốn xanh tại Việt Nam là khung pháp lý vẫn đang được hoàn thiện (TAXONOMY). Doanh nghiệp chưa nắm bắt được lợi ích dài hạn của phát triển bền vững và hạn chế kiến thức về tài chính xanh.

Đồng thời, các cơ chế chính sách khuyến khích các doanh nghiệp phát hành và nhà đầu tư sản phẩm tài chính xanh còn hạn chế. Bên cạnh đó, thiếu sự tham gia tích cực của các bên cung cấp dịch vụ đánh giá độc lập (trước và sau phát hành).

Giải pháp thúc đẩy thị trường vốn xanh tại Việt Nam

Bàn về giải pháp, TS. Cấn Văn Lực đưa ra giải pháp đối với tính dụng xanh là cần xây dựng Quỹ tái cấp vốn, gói tín dụng xanh với lãi suất ưu đãi; TCTD xây dựng quy trình thẩm định dành riêng cho tín dụng xanh; có sản phẩm, dịch vụ phù hợp đối với các lĩnh vực khác nhau; tăng cường nâng cao nhận thức, đào tạo cán bộ về những lĩnh vực như ESG, năng lượng tái tạo, sản xuất - tiêu dùng xanh... để các hoạt động thẩm định, thiết kế sản phẩm và quản lý rủi ro được thực hiện phù hợp và hiệu quả hơn.

Ông Vũ Chí Dũng cũng đưa ra một số giải pháp giúp thúc đẩy thị trường vốn xanh như: Hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến thị trường vốn xanh (cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ ngành); phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ Tài chính nghiên cứu, hoàn thiện khung chính sách hỗ trợ cho thị trường vốn xanh nhằm tạo thuận lợi cho các tổ chức phát hành, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước; tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác xây dựng và phát triển thị trường vốn xanh, hướng tới thực hiện các thông lệ tốt trên thị trường chứng khoán gắn với tăng trưởng xanh; nghiên cứu hoàn thiện và cơ cấu lại Chỉ số VNSI để phù hợp hơn với bối cảnh phát triển bền vững trên thị trường chứng khoán hiện nay…

Giải pháp thúc đẩy thị trường vốn xanh và phát triển bền vững của doanh nghiệp

Tại Diễn đàn Tài chính xanh năm 2024, các chuyên gia đưa ra nhiều giải pháp phát triển tài chính xanh ở Việt Nam; tiềm năng của thị trường vốn xanh ở Việt Nam; giải pháp thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững của doanh nghiệp niêm yết; hay công tác phát hành trái phiếu xanh, cho vay tín dụng xanh.

Còn theo ông Nguyễn Bá Sơn, về khung pháp lý cần sớm ban hành quy định phân loại và xác nhận dự án xanh và xem xét sự tương đồng giữa các tiêu chí xanh của Việt Nam và các tiêu chuẩn quốc tế.

Về phía nhà đầu tư, cần ban hành các chính sách ưu đãi để thu hút nhà đầu tư; đào tạo nguồn nhân lực về môi trường; xây dựng hệ thống dữ liệu về môi trường.

Về phía doanh nghiệp, cần nâng cao nhận thức và khuyến khích doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi xanh; duy trì, mở rộng các cơ chế hỗ trợ chi phí phát hành, tư vấn kỹ thuật; khuyến khích các doanh nghiệp đầu ngành tiên phong phát hành.

Ông Sơn cũng đưa ra gợi ý cho doanh nghiệp nên lựa chọn sản phẩm trái phiếu ESG (xanh, bền vững, liên kết bền vững...) phù hợp mục đích cụ thể của doanh nghiệp ở từng giai đoạn/lộ trình phát triển. Xây dựng tổng thể chiến lược chuyển đổi xanh của doanh nghiệp, trong có xác lập kế hoạch phát hành trái phiếu ESG. Đồng thời, tìm kiếm các kênh hỗ trợ, tư vấn từ các tổ chức trong nước, quốc tế có kinh nghiệm.

Bà Trần Anh Đào - Phó Tổng giám đốc phụ trách Ban điều hành, Sở Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh đưa ra một số cân nhắc đối với doanh nghiệp là cần nâng cao nhận thức về ESG và phát triển bền vững (thông qua các chương trình đào tạo, tập huấn); nâng cao năng lực về quản trị doanh nghiệp, quản trị ESG, năng lực tuân thủ các chuẩn mực tài chính kế toán; chú trọng đến yếu tố E&S (môi trường & xã hội) ngay từ khi chuẩn bị dự án và tuân thủ chặt chẽ các quy định về môi trường (kiểm kê KNK & giảm nhẹ phát thải).

IFC ước tính, các cơ hội đầu tư về khí hậu của Việt Nam có thể lên tới 757 tỷ USD vào năm 2030, tập trung vào lĩnh vực: năng lượng, giao thông, xây dựng xanh.

Để đạt mục tiêu trung hòa carbon/net-zero cần nhu cầu vốn lớn thị trường tài chính là kênh huy động vốn quan trọng.

Ông Hà Huy Cường - Phó Tổng Giám đốc, Ngân hàng Nam Á chia sẻ, Nam A Bank là một trong những ngân hàng tiên phong trong việc phát triển tín dụng xanh tại Việt Nam. Chiến lược đến 2025 ngân hàng định hướng xây dựng trở thành “ngân hàng xanh”.

Chính vì vậy, ngân hàng đã tập trung nguồn lực, ưu tiên hành động luôn hướng tới mục tiêu và chiến lược này xuyên suốt trong quá trình điều hành hàng năm. Nam A Bank là một trong những ít ngân hàng có Ban chỉ đạo Ngân hàng Xanh và Ban Tín dụng Xanh.

“Các hoạt động kinh doanh của chúng tôi luôn gắn liền với chiến lược số hóa và xanh hóa; hướng đến việc khẳng định tính bền vững, tính chuyên nghiệp, tính khác biệt của thương hiệu Nam A Bank thông qua yếu tố “số” và “xanh”.

Nhiều năm qua Nam A Bank đã "xanh hóa" danh mục tín dụng, liên tục xây dựng thêm danh mục sản phẩm tín dụng xanh đa dạng, hoạt động kinh doanh tập trung ở các lĩnh vực: nông nghiệp thông minh; du lịch xanh; doanh nghiệp xanh” - ông Cường nói.

Ông Cường cho biết thêm, đến nay đã đạt được quy mô khá lớn trong danh mục cấp tín dụng và đang chiếm khoảng 10% quy mô tín dụng của Nam A Bank, đã giải ngân hơn 12 nghìn tỷ đồng với gần 10.000 khoản vay./.