Giải pháp tổng thế tăng khả năng tiếp cận và hấp thụ vốn của doanh nghiệp và người dân trong bối cảnh hiện nay
- Ở kịch bản cơ sở, GDP Việt Nam năm nay sẽ tăng 5,5-6%. Ở kịch bản tích cực hơn, tăng trưởng cả năm có khả năng đạt 6-6,5%.
- Phân chia theo khẩu vị rủi ro từ thấp tới cao, kênh tiền gửi tiết kiệm và vàng vẫn được coi là an toàn, nhất là kênh gửi tiết kiệm vẫn hấp dẫn đối với nhiều NĐT trong bối cảnh lãi suất huy động được dự báo sẽ duy trì ở mức cao trong năm 2023.
LTS: TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo về Giải pháp tổng thế tăng khả năng tiếp cận và hấp thụ vốn của doanh nghiệp và người dân trong bối cảnh hiện nay. Chúng tôi xin đăng nguyên văn báo cáo để quý độc giả tiện theo dõi.
------------
1. Tình hình tăng trưởng tín dụng ngân hàng năm 2023 và 2 tháng đầu năm 2024:trong năm 2023, theo NHNN, tín dụng toàn hệ thống tăng 13,71% so với cuối năm 2022, sát mức mục tiêu 14% của NHNN. Đây là mức phù hợp với tăng trưởng kinh tế và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Tương tự, huy động vốn tăng 14%, đảm bảo thanh khoản hệ thống ngân hàng và khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế (Hình 1).
Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng bình quân (tính theo tháng) cả năm 2023 chỉ đạt 10,5%, là mức khá thấp kể từ năm 2013 (có nghĩa là tăng trưởng tín dụng dồn vào dịp cuối năm, chứ không tăng đều qua các tháng).
Sang đầu năm 2024, mặc dù có những yếu tố hỗ trợ như lãi suất giảm (đã giảm khoảng 3% so với đầu năm 2023), nhiều gói tín dụng ưu đãi (như gói tín dụng 30 nghìn tỷ đồng, ưu đãi 2% lãi suất cho vay xuất khẩu lâm - thủy sản, gói 20 nghìn tỷ đồng cho vay tiêu dùng dành cho công nhân...), nhưng tín dụng vẫn giảm (hết tháng 2/2024, tín dụng ngân hàng giảm 0,72% so với cuối năm 2023, thấp hơn so với cùng kỳ các năm trước - Hình 2,nhưng tăng 12% so với cùng kỳ năm trước) cho thấy cần phân tích, đánh giá toàn diện, khoa học để đưa ra giải pháp trúng và đúng hơn.
Tuy nhiên, cũng không nên quá băn khoăn vì những lý do sau.
Theo dự báo của Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV, trong năm 2024, tăng trưởng tín dụng dự báo vẫn có thể cao hơn năm 2023, đạt khoảng 14-15%với 4 lý do chính: (i) NHNN đã giao toàn bộ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng (15%) ngay từ đầu năm và có thể điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tiễn, giúp các TCTD chủ động đẩy mạnh tín dụng tăng đều qua các tháng, khiến tín dụng bình quân tăng cao hơn; (ii) Tình hình kinh tế vĩ mô được dự báo khả quan hơn (tăng trưởng GDP năm 2024 được dự báo ở mức 6-6,5%, cao hơn mức 5,05% của năm 2023), lạm phát dự báo được kiểm soát (khoảng 3,5-4%)…; trong đó các động lực tăng trưởng (như xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng cùng với hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp) tiếp tục phục hồi, nhu cầu tín dụng sẽ tăng theo (thực tế là tín dụng đang phục hồi với mưc giảm ít đi); (iii) Mặt bằng lãi suất liên tục giảm trong nửa cuối năm 2023 và được kỳ vọng sẽ giữ ở mức thấp trong năm 2024 (có thể giảm nhẹ ở một số thời điểm và theo một số gói tín dụng ưu đãi). Lãi suất thấp không chỉ giúp kích cầu tín dụng mà còn giúp giảm chi phí lãi vay, chi phí vốn từ phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), theo đó, thị trường TPDN cũng sẽ phục hồi tốt hơn trong năm 2024, góp phần tăng nguồn vốn trung – dài hạn cho nền kinh tế; và (iv) thị trường bất động sản (BĐS) đang dần phục hồi, dự báo rõ nét hơn từ cuối quý 2/2024, qua đó nhu cầu tín dụng, nhất là tín dụng nhà ở sẽ tăng (vốn dĩ tăng rất thấp trong năm 2023 như nêu dưới đây).
2. Nguyên nhân tăng trưởng tín dụng còn thấp 2 tháng đầu năm 2024
- Xét về phía cung (không phải là nguyên nhân chính):
Nợ xấu có xu hướng tăng nhanh. Theo NHNN, tính đến cuối năm 2023, tỷ lệ nợ xấu nội bảng toàn hệ thống ngân hàng là khoảng 4,55%, cao hơn mục tiêu của Chính phủ (3%), tăng mạnh so với cuối năm 2022 (1,92%), dù chưa bao gồm nợ được cơ cấu lại theo Thông tư 02/2023/TT-NHNN (ước khoảng 183.500 tỷ đồng đến hết năm 2023, chiếm 1,35% tổng dư nợ). Tuy nhiên, nếu loại trừ nợ xấu của 3 NHTM mua bắt buộc và 2 NHTM kiểm soát đặc biệt (NH Đông Á và SCB) thì tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống TCTD ước tính dưới 3%. Cùng với năng lực tài chính của các TCTD hiện nay tốt hơn nhiều so với 10 năm trước đây, cho thấy nợ xấu vẫn trong tầm kiểm soát. Tuy nhiên, nợ xấu tăng là một trong những nguyên nhân khiến các TCTD trở nên thận trọng hơn khi cho vay trong khi khả năng đáp ứng điều kiện tín dụng của một số doanh nghiệp (DN) bị giảm (do kinh doanh phục hồi chậm và giá trị tài sản bảo đảm, nhất là bất động sản bị giảm), nhưng không phải là nguyên nhân chính khiến tín dụng tăng thấp.
- Xét về phía cầu (là nguyên nhân chính):
Theo chúng tôi, có 5 nguyên nhân chính khiến tín dụng tăng chậm trong 2 tháng đầu năm 2024.
- Một là, yếu tố mang tính thời vụ và Tết Nguyên đán: nhu cầu vay vốn thường tăng cao trong Quý 4 mỗi năm và trầm lắng hơn trong tháng 1, tháng 2 (tháng Tết). Cuối năm 2023 nhu cầu vay vốn tăng nhanh (nhất là 2 tháng cuối năm tăng thêm 6,3% so với cuối tháng 10/2023), nhiều khoản vay đã được giải ngân cuối năm, nên đầu năm chưa có nhu cầu vay thêm. Ngoài ra, yếu tố văn hóa kinh doanh (người dân, DN thường ít vay tiền ngay đầu năm mới sau Tết Âm Lịch) cũng khiến tín dụng tăng thấp.
- Hai là, kinh tế thế giới còn gặp nhiều rủi ro, thách thức chính như: (i) khủng hoảng tại Biển Đỏ, xung đột Nga-Ukraine, Israel-Hamas dai dẳng, khó đoán định; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn còn phức tạp, chủ nghĩa bảo hộ gia tăng; (ii) lạm phát, lãi suất toàn cầu dù có dấu hiệu giảm nhưng còn ở mức cao; (iii) rủi ro tài khóa và nợ (nợ công, nợ tư nhân) còn cao; (iv) kinh tế thế giới phục hồi chậm (đặc biệt các nền kinh tế hàng đầu tại Eurozone, Anh, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản…) tăng trưởng chậm lại; (v) an ninh năng lượng, lương thực và thiên tai, khí hậu cực đoan vẫn là những mối lo thường trực. Những rủi ro, thách thức này có tác động tiêu cực đến đà phục hồi của kinh tế thế giới và sức cầu đối với xuất khẩu, đầu tư của Việt Nam.
- Ba là, khó khăn bên ngoài cùng với kỳ nghỉ Tết và khó khăn nội tại khiến xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng trong tháng 2 vừa qua giảm so với tháng 1, dẫn đến giảm khả năng tiếp cận và hấp thụ vốn của doanh nghiệp và người dân, cụ thể:
+ Chỉ số SXCN (IIP) tháng 2/2024 giảm 18% so với tháng trước và giảm 6,81% so với cùng kỳ năm trước (chủ yếu là do Tết Nguyên đán rơi trọn vào tháng 2/2024). Tuy nhiên, tính chung 2 tháng đầu năm, chỉ số IIP ước tăng 5,74% (so với mức giảm 6,32% cùng kỳ năm 2023), cho thấy xu hướng phục hồi vẫn là chủ đạo.
+ Sức cầu tiêu dùngcòn yếu: tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tháng 2/2024 giảm 2,3% so với tháng trước và tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước (một phần là do so với mức nền thấp của năm trước). Tính chung 2 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ ước tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước, song vẫn thấp hơn mức tăng 14,7% của cùng kỳ năm 2023 và thấp hơn mức tăng 12,2% của cùng kỳ năm 2019 (năm trước dịch), dù cao hơn mức tăng trưởng cùng kỳ các năm 2020-2022 (năm dịch bệnh và chiến tranh bùng nổ). Nếu loại trừ yếu tố giá, tổng mức bán lẻ tăng 5% so với cùng kỳ năm trước, chỉ bằng khoảng 50% mức tăng 10,9% của cùng kỳ năm 2023 và giai đoạn trước dịch 2018-2019 (9,3%). Đặc biệt cấu phần bán lẻ hàng hóa - chiếm tỷ trọng cao nhất (gần 80% trong doanh thu bán lẻ) chỉ tăng 6,8%, thấp nhất trong 4 cấu phần và thấp hơn so với cùng kỳ năm 2019 - mức trước dịch (14,4%) và các năm 2020-2022 (lần lượt là 8,3%; 7,8% và 10,1%) do thu nhập của người dân chưa tăng cùng với tâm lý phòng thủ, tiêu dùng thận trọng hơn bởi lo ngại tình hình thế giới còn bất định, kinh tế còn khó khăn, hành vi tiêu dùng đã thay đổi theo hướng ưu tiên cho nhu cầu thiết yếu hơn là hàng hóa xa xỉ...v.v. Theo đó, cho vay tiêu dùng (cả thẻ tín dụng) chiếm 21,2% tổng tín dụng nền kinh tế, chỉ tăng 7,83% năm 2023 (thấp hơn nhiều so với mức tăng 28% của năm 2022 và trên 20% của giai đoạn 2018-2019).
- Bốn là, thị trường bất động sảncòn nhiều khó khăn, phục hồi còn chậm. Theo NHNN, tín dụng bất động sản năm 2023 chỉ tăng 11,81% (thấp hơn mức tăng trưởng tín dụng chung là 13,7%), trong đó cho vay đầu tư – kinh doanhBĐS (chiếm 37,8% tổng tín dụng BĐS), tăng 35,4% (cao hơn nhiều so với mức tăng 10,73% của năm 2022); trong khi đó cho vay nhà ở (chiếm 62,2% tổng dư nợ BĐS) chỉ tăng 1,08% (thấp hơn nhiều so với mức tăng 31% của năm 2022), phản ánh sức cầu vay mua nhà, sửa nhà của người dân rất thấp và tâm lý chờ đợi giảm giá còn diễn ra, ít nhất là hết quý 1/2024. Ngoài ra, thị trường BĐS khó khăn khiến giá trị tài sản bảo đảm bằng BĐS bị giảm, thanh lý tài sản nợ xấu là BĐS bị chậm lại, làm cho khả năng tiếp cận vốn và xử lý nợ xấu khó khăn hơn.
- Năm là, hoạt động của doanh nghiệp (DN) còn nhiều khó khăn, thể hiện qua việc số DN đăng ký thành lập mới tháng 2 giảm 36,5% so với tháng trước (tuy nhiên, lũy kế 2 tháng vẫn tăng 12,4% so với cùng kỳ năm trước). Số DN quay trở lại hoạt động tháng 2 giảm 61,3% so với tháng trước (lũy kế 2 tháng tăng 4,4% so với cùng kỳ). Bên cạnh đó, số DN tạm ngừng kinh doanh có thời hạn tháng 2 giảm 88,3% so với tháng trước, tuy nhiên lũy kế 2 tháng vẫn tăng 27,1%....v.v. Đây là mức tăng cao so với cùng kỳ các năm trước.
Với những khó khăn, cùng với khả năng đáp ứng điều kiện tín dụng bị giảm và nhu cầu vốn, khả năng hấp thụ vốn như nêu trên, tăng trưởng tín dụng năm 2023 và 2 tháng đầu năm 2024 diễn biến cơ bản là phù hợp với tình hình thị trường. Như tại Hình 1, tăng trưởng tín dụng năm 2023 (13,7%) gần bằng mức tăng năm 2019 (trước dịch Covid-19), cao hơn mức tăng của các năm 2020-2022, và cũng là mức tăng cao nhất so với các nước trong khu vực (Hình 3).
3. Giải pháp tăng khả năng tiếp cận và hấp thụ vốn của DN và người dân:
Để tăng khả năng tiếp cận và hấp thụ vốn của nền kinh tế; chúng tôi kiến nghị Chính phủ, Bộ, ngành, địa phương, NHNN, doanh nghiệp và TCTD ưu tiên thực hiện đồng bộ8 nhóm giải pháptác động cả tổng cung và tổng cầunăm 2024 như sau:
Thứ nhất, Chính phủ chỉ đạo tiếp tục nghiêm túc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, nghị định, công điện gần đây của Chính phủ (nhất là các Nghị quyết 01, 02; Chỉ thị 06, 07 và gần đây nhất là Công điện số 18/CĐ-TTg ngày 5/3/2024 về điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024); tiếp tục bám sát tình hình kinh tế thế giới, chủ động phân tích, dự báo để có kịch bản ứng phó phù hợp; tiếp tục bình ổn, lành mạnh hóa các thị trường (chứng khoán, TPDN, BĐS, xăng dầu, thị trường vàng…) nhằm củng cố niềm tin nhà đầu tư, DN và người dân.
Thứ hai, tiếp tục nâng cao hiệu quả phối hợp chính sách (đặc biệt giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác), phấn đấu tiếp tục giảm lãi suất, bình ổn tỷ giá, giá cả hàng hóa thiết yếu và các thị trường tài chính, đất đai, BĐS…; nhằm góp phần thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Trong đó, kiến nghị Quốc Hội, Chính phủ cho phép áp dụng các chính sách hỗ trợ người dân, DN như đã áp dụng trong năm 2023 (như giãn hoãn, giảm thuế phí; cơ cấu lại nợ, gia hạn Thông tư 02/NHNN, sửa đổi Thông tư 06/NHNN....).
Thứ ba, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong đó cần tập trung vào các động lực tăng trưởng. Theo đó, cần đẩy mạnh xuất khẩu, kích cầu đầu tư tư nhân (chỉ tăng 2,7% năm 2023 – mức tăng thấp nhấp 5 năm qua) bằng cách quyết liệt cải thiện môi trường đầu tư – kinh doanh, kích cầu tiêu dùng (đang tăng thấp như nêu trên), ngoài các giải pháp quyết liệt của Thủ tướng, của Chính phủ về giải ngân đầu tư công, thu hút FDI có chất lượng cao...v.v. Đồng thời, quan tâm thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới như liên kết vùng với việc thúc đẩy tăng trưởng của các đầu tàu nền kinh tế, tăng tính lan tỏa, nhất là Hà Nội, Tp. HCM, Đà Nẵng (3 địa phương này đóng góp khoảng 32% GDP cả nước năm 2023) và kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, tăng năng suất lao động…v.v.
Thứ tư, cần có đánh giá đúng và trúng thực trạng tình hình doanh nghiệp; từ đó tháo gỡ kịp thời và chính xác những tồn tại, vướng mắc được chỉ ra; quan tâm hỗ trợ DN chịu tác động tiêu cực từ môi trường kinh doanh như:(i) khai thác tốt hơn các FTAs đã ký kết, thực hiện hiệu quả hơn công tác xúc tiến thương mại, đa dạng hóa hàng hóa và thị trường xuất khẩu, đầu tư; (ii) tiếp tục đẩy mạnh, quyết liệt cải thiện thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh, thủ tục hành chính, nhất là bộ máy thực thi công vụ (gồm cả các thủ tục hoàn thuế, phòng cháy chữa cháy, định giá đất, giải phóng mặt bằng, cung ứng nguyên vật liệu...); (iii) sớm ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ DN chịu tác động từ việc áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu; (iv) giải quyết dứt điểm những vụ việc vi phạm về chứng khoán, BĐS vừa qua nhằm củng cố niềm tin của người dân và DN; (v) quyết liệt hơn giải quyết vướng mắc, khó khăn của thị trường TPDN, thị trường BĐS (nhất là các vấn đề về pháp lý) như các Nghị quyết, nghị định và chỉ thị của Chính phủ đã ban hành thời gian qua, sớm xem xét thành lập Quỹ phát triển nhà ở xã hội (như là một chương trình hỗ trợ mạnh cho thị trường BĐS phục hồi)...v.v.
Thứ năm, gia tăng nguồn lực cho các TCTD để có thể hỗ trợ nền kinh tế. Theo đó, Quốc Hội, Chính phủ tiếp tục cho phép các NHTM có sở hữu Nhà nước tiếp tục được giữ lại lợi nhuận Nhà nước hàng năm để tăng vốn, tạo điều kiện các TCTD dẫn dắt, tham gia tái cơ cấu các TCTD yếu kém, có điều kiện tăng tín dụng, triển khai các gói hỗ trợ và giảm mặt bằng lãi suất cho vay.
Thứ sáu, phát triển thị trường tài chính cân bằng hơn, theo đó, cần ưu tiên tháo gỡ khó khăn cho thị trường TPDN để giảm bớt gánh nặng cho kênh tín dụng (sớm sửa đổi Nghị định 65 để thay thế cho Nghị định 08 (2023) đã hết hạn); đẩy nhanh thực thi các nhóm giải pháp nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thứ bảy, đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện thể chế (nhất là việc ban hành hướng dẫn thực hiện Luật nhà ở, Luật kinh doanh BĐS, Luật đất đai, Luật các TCTD sửa đổi...); cùng với việc tháo gỡ rào cản, chú trọng khâu thực thi và phối hợp chính sách; quan tâm xây dựng thể chế, chính sách cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn...để vừa tận dụng cơ hội, vừa hỗ trợ vượt qua khó khăn, thách thức và phát triển bền vững.
Cuối cùng, doanh nghiệp và các TCTD cũng cần ưu tiên thực hiện cácnhóm giải pháp sau:
- Một là, DN cần quyết tâm cơ cấu lại, giảm chi phí; nâng cao hiệu quả, trách nhiệm sử dụng vốn, minh bạch thông tin (theo đúng cam kết, hồ sơ phát hành trái phiếu hoặc vay vốn); giải quyết đúng và đủ các cam kết trả nợ (chủ đầu tư, doanh nghiệp BĐS xem xét tiếp tục giảm giá bán về mức hợp lý hơn, phù hợp hơn với thu nhập của người dân); xây dựng lộ trình niêm yết, áp dụng xếp hạng tín nhiệm TPDN phù hợp...v.v.
- Hai là, đa dạng hóa nguồn vốn (tránh chỉ phụ thuộc vào một nguồn tín dụng, quan tâm hơn đến cả phương thức thuê tài chính, tài trợ chuỗi cung ứng...); tăng cường kiểm soát rủi ro, nhất là rủi ro tài chính, lãi suất, tỷ giá, lừa đảo, an ninh mạng (có thể hợp tác với các DN công nghệ, TCTD, thương vụ, hiệp hội)…v.v.
- Ba là,DN cũng cần tính cả bài toán dài hơi hơn như chú trọng chuyển đổi số, ứng dụng CNTT trong phát triển, quản lý, vận hành hoạt động DN; đào tạo, phát triển đội ngũ nhân sự chất lượng cao và đẩy mạnh xanh hóa, phát triển bền vững. Đây cũng là xu thế tất yếu hiện nay và trong thời gian tới.
- Bốn là, đối với các TCTD,cần nhất quán, đồng bộ tiết giảm chi phí, cân đối chi phí huy động vốn, phấn đấu tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay; chủ động thực hiện Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu lại nợ, Thông tư 06 và Thông tư 10 về hoạt động cho vay của các TCTD; triển khai hiệu quả các gói tín dụng đã đề ra, thúc đẩy tăng trưởng đều tín dụng từ đầu năm, không quá dồn vào các tháng cuối năm; tuân thủ chỉ đạo của Thủ tướng về việc công bố lãi suất cho vay bình quân tại Công điện số 18/CĐ-TTg ngày 5/3/2024; rà soát, linh hoạt hơn, phù hợp hơn trong việc áp dụng(không phải là hạ chuẩn) các điều kiện tín dụng (gồm cả việc xem xét, chấp nhận tài sản bảo đảm là hàng tồn kho, đơn hàng, hợp đồng thi công...); tinh giản quy trình, đẩy nhanh tiến độ phê duyệt tín dụng; đẩy mạnh ứng dụng CNTT và chuyển đổi số, thanh toán không dùng tiền mặt (vừa là tiết giảm chi phí, vừa giảm thủ tục giấy tờ và phù hợp với xu thế)….
Xem thêm tại cafef.vn