Ngân hàng đua tăng lãi suất huy động, bối rối quy định "bán kèm bảo hiểm"

Ngân hàng đua tăng lãi suất huy động: Người gửi tiền vẫn thờ ơ

Chỉ tính riêng trong gần 2 tuần đầu tháng 7/2024, có thêm 8 ngân hàng tăng lãi suất huy động. Mặt bằng lãi suất huy động đã tăng 0,5%/năm so với cuối quý I/2024. Dù vậy, tốc độ tăng trưởng huy động vốn vẫn rất chậm, chỉ bằng 1/3 tốc độ tăng trưởng tín dụng.

Trong vòng 10 ngày đầu tháng 7/2024, thị trường đã chứng kiến thêm 10 ngân hàng tăng lãi suất huy động, gồm NCB, Eximbank, SeABank, VIB, BaoViet Bank, Saigonbank, VietBank, BVBank, KienLong Bank và MB. Trước đó, riêng tháng 6/2024, có 23 ngân hàng thương mại tăng lãi suất huy động. Như vậy, làn sóng tăng lãi suất huy động đã diễn ra 3 tháng liên tiếp.

Điểm đáng chú ý là, mặt bằng lãi suất huy động trên thị trường đang biến động rất mạnh. Khối ngân hàng thương mại nhà nước có mức lãi suất thấp và đứng ngoài cuộc đua tăng lãi suất huy động, trong khi khối ngân hàng TMCP tư nhân liên tục điều chỉnh lãi suất. Tính từ tháng 4/2024 đến nay, nhiều ngân hàng tăng lãi suất 4-5 lần. Điều này khiến mặt bằng lãi suất huy động trên thị trường phân hóa mạnh.

Tại một số kỳ hạn, lãi suất của khối ngân hàng TMCP tư nhân thậm chí còn cao gấp đôi lãi suất tiền gửi của ngân hàng TMCP quốc doanh.

Cụ thể, lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 1 tháng của nhóm ngân hàng quốc doanh (Big 4) là 1,6-2%/năm, trong khi nhóm ngân hàng TMCP tư nhân lên tới 3-3,4%/năm. Lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 3 tháng của nhóm Big 4 là 1,9-2,3%/năm, còn của khối cổ phần tư nhân là 3,5-4%/năm. Tương tự, với kỳ hạn 6 tháng, lãi suất của nhóm Big 4 ở mức 3-3,3%/năm, trong khi lãi suất của ngân hàng TMCP tư nhân lên tới 5,6%.

Hiện lãi suất kỳ hạn 12 tháng và 18 tháng cao nhất trên thị trường là 6-6,1% tại khối ngân hàng TMCP tư nhân, trong khi nhóm Big 4 duy trì ở mức 4,7%/năm.

Ông Đinh Đức Quang, Giám đốc điều hành kinh doanh tiền tệ Ngân hàng UOB cho rằng, các ngân hàng tăng lãi suất huy động nhằm đưa kênh tiết kiệm cạnh tranh với các kênh đầu tư khác trên thị trường.

Trên thực tế, mặt bằng lãi suất huy động quá thấp đã khiến tiền gửi vào ngân hàng giảm tốc trong bối cảnh cầu tín dụng bắt đầu phục hồi. Theo ông Quang, trong nửa cuối năm 2024, lãi suất tiết kiệm có thể tăng 0,5 - 1%/năm, tùy kỳ hạn.

Lãi suất huy động toàn thị trường đã tăng khoảng 0,5 điểm phần trăm so với cuối tháng 3 năm nay. Dù vậy, mức lãi suất huy động này vẫn thấp hơn 0,15 - 0,45 điểm phần trăm so với cuối năm ngoái.

Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tính từ đầu năm tới ngày 24/6/2024, huy động vốn của các tổ chức tín dụng chỉ tăng 1,50%, trong khi tín dụng tăng tới 4,45% so với cuối năm 2023. Như vậy, tín dụng đang tăng gấp 3 lần so với tốc độ tăng huy động vốn. Tình trạng này kéo dài sẽ dẫn tới “bẫy thanh khoản” cho các tổ chức tín dụng, buộc các nhà băng phải tăng lãi suất huy động để cân đối nguồn vốn.

Theo các chuyên gia phân tích, huy động vốn chậm, tín dụng phục hồi là nguyên nhân khiến lãi suất huy động đi lên. Ngoài ra, hoạt động can thiệp của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thông qua các công cụ tín phiếu và bán ngoại tệ cũng ảnh hưởng tới thanh khoản tiền đồng của các ngân hàng.

Tín dụng phục hồi nhanh chóng trong tháng 6/2024 (tăng 3,6%, cao hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng 5 tháng cộng lại) và dự báo còn phục hồi mạnh hơn nữa trong nửa cuối năm nay. Ngoài ra, áp lực tỷ giá vẫn rất lớn kéo theo khả năng NHNN tiếp tục bán ngoại tệ, hút ròng tiền đồng về. Đây là hai động lực chính đẩy lãi suất huy động có thể tiếp tục đi lên nửa cuối năm.

Lãi suất huy động tăng sẽ kích thích dòng tiền gửi quay trở lại hệ thống ngân hàng, tạo sức hấp dẫn cho kênh tiền gửi tiết kiệm so với các kênh đầu tư khác. Trong nửa cuối năm, lãi suất có tăng tiếp hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là lạm phát, Chỉ số Giá tiêu dùng, động thái của Fed, cung - cầu ngoại tệ…

Tôi cho rằng, hiện tại, áp lực tăng lãi suất chưa phải là quá lớn, song tình hình có thể thay đổi trong những tháng cuối năm. Trong bối cảnh này, NHNN buộc phải cân đối hài hòa giữa các mục tiêu và linh hoạt ứng biến theo diễn biến thị trường để đảm bảo sự ổn định về chính sách tiền tệ, ổn định về lãi suất và kiềm chế lạm phát, đồng thời hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng.

Các chuyên gia nghiên cứu Công ty Chứng khoán VDSC cho rằng, lãi suất huy động sẽ tăng thêm 0,5 - 1%, trở về mức trung bình trước dịch Covid-19. Tuy vậy, mức tăng sẽ không đột biến như năm 2022 do bối cảnh vĩ mô khác nhau.

Hiện tại, giới phân tích đưa ra các dự đoán khác nhau về khả năng NHNN tăng lãi suất điều hành. Luồng ý kiến thứ nhất cho rằng, NHNN sẽ phải tăng lãi suất điều hành 0,25-5% trong quý III/2024 nếu áp lực lãi suất không giảm. Luồng ý kiến còn lại nhận định, NHNN sẽ nỗ lực ổn định lãi suất điều hành để các ngân hàng thương mại có cơ sở ghìm lãi suất cho vay trong bối cảnh nền kinh tế mới bắt đầu phục hồi.

Giới chuyên gia dự báo, trong nửa cuối năm, lãi suất điều hành nếu tăng cũng chỉ tăng ở lãi suất thị trường mở, còn trần lãi suất huy động và lãi suất cho vay sẽ vẫn được giữ ổn định.

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế cho rằng, lãi suất tiết kiệm trên thị trường tăng nhẹ như thời gian qua là hợp lý, giúp cân bằng lợi ích các bên, giữ chân người gửi tiền. Với hệ thống ngân hàng, điều quan trọng nhất hiện nay vẫn là giữ được lãi suất điều hành ổn định và mặt bằng lãi vay ở mức thấp để nền kinh tế phục hồi.

Trên thực tế, dù lãi suất huy động đã thoát đáy, song vẫn chưa hấp dẫn với người gửi tiền. Ông Huỳnh Hoàng Phương, chuyên gia tài chính, cố vấn quản lý gia sản Công ty cổ phần FIDT nhận định: “Trong 6 tháng cuối năm, lãi suất tiết kiệm sẽ tăng, song mức độ tăng không nhiều và chưa thực thực sự hấp dẫn”.

Trên thực tế, với tính an toàn và khả năng thanh khoản cao, tiền gửi tiết kiệm vẫn là lựa chọn với số đông. Dù vậy, với lãi suất tiết kiệm hiện nay, cảnh người dân ùn ùn gửi tiền vào ngân hàng như năm 2022 là không xảy ra.

Lãi vay giảm, hộ kinh doanh vẫn khó tiếp cận vốn

Lãi suất cho vay giảm, song ngân hàng không thể hạ chuẩn tín dụng, nên các hộ kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn rất khó tiếp cận vốn.

TS. Hoàng Văn Ninh, chuyên gia kinh tế - tài chính cho rằng, tiểu thương đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, song họ đang đối mặt với nhiều thách thức trong việc tiếp cận nguồn vốn. Theo ước tính, doanh nghiệp nhỏ và vừa (bao gồm cả tiểu thương) chiếm khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội, tạo việc làm cho hơn 50% lực lượng lao động trong nước, đảm bảo sinh kế cho hàng triệu gia đình. Với hơn 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, nhu cầu vốn kinh doanh là rất lớn.

Vietcombank dành khoảng 20% danh mục cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa, gồm cả tiểu thương. Điều này cho thấy, ngân hàng này nhận thức được tầm quan trọng của tiểu thương. Tuy nhiên, để tiếp cận nguồn vốn này, tiểu thương phải đối mặt với nhiều yêu cầu và điều kiện khắt khe, nhất là về tài sản thế chấp.

VPBank cũng đã tiên phong xây dựng hệ thống, nguồn lực để đẩy mạnh cho tiểu thương vay tín chấp, nhưng sau đó phát triển quy mô không được như kỳ vọng do các vấn đề liên quan đến rủi ro tín dụng, chất lượng danh mục chưa thể được quản lý một các tối ưu và hiệu quả.

Thực tế hiện nay cho thấy, bên cạnh ngân hàng, các công ty tài chính như FECredit, EVNFinance, SHBFinance đều có nhóm sản phẩm cho vay tiểu thương tín chấp với điều kiện vay vốn yêu cầu thủ tục đơn giản, không đòi hỏi tài sản thế chấp, song còn rất nhiều thách thức liên quan lãi suất cao và chất lượng danh mục.

“Chỉ khoảng 30% tiểu thương có khả năng tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng và tổ chức tài chính chính thức. Đây là một con số khá thấp, phản ánh những khó khăn và trở ngại trong việc tiếp cận vốn. Khoảng 70% tiểu thương gặp khó do yêu cầu tài sản thế chấp và thủ tục phức tạp. Nhiều tiểu thương không có tài sản đủ giá trị để thế chấp hoặc không thể hoàn thành các thủ tục giấy tờ phức tạp mà ngân hàng yêu cầu, nên họ phải tìm đến các nguồn vốn không chính thức với nhiều rủi ro”, TS. Hoàng Văn Ninh nói.

Theo một thống kê của Bộ Công an, có khoảng 30% tiểu thương từng sử dụng tín dụng đen do khó tiếp cận nguồn vốn chính thức, với lãi suất cao.

Một trong những nguyên nhân khiến các tiểu thương và doanh nghiệp nhỏ và vừa ngại tiếp cận vốn vay được cho là các yêu cầu và thủ tục phức tạp từ phía ngân hàng. Trong đó, khoảng 60% tiểu thương không đáp ứng được yêu cầu tài sản thế chấp của ngân hàng. Yêu cầu tài sản thế chấp cao và thủ tục giấy tờ phức tạp là rào cản lớn đối với tiểu thương khi tiếp cận vốn ngân hàng. Bên cạnh đó, 80% tiểu thương không có lịch sử tín dụng hoặc tài sản đảm bảo đủ để vay vốn, nên họ phải tìm đến các nguồn vốn không chính thức với nhiều rủi ro, lãi suất cao.

TS. Nguyễn Đức Kiên, nguyên Tổ trưởng Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, nếu nhìn rộng hơn, với trên 5 triệu hộ kinh doanh cá thể và gần 800.000 doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ đang gặp khó khăn trong tiếp cận dịch vụ tài chính, thì việc đổi mới quy định đối với các loại hình mới tham gia cung ứng dịch vụ tài chính như fintech là giải pháp phù hợp.

Vì thế, ông Nguyễn Đức Kiên nêu quan điểm, cần đẩy nhanh việc xây dựng khung khổ pháp lý riêng biệt cho công ty fintech để cùng với ngân hàng truyền thống đưa các sản phẩm, dịch vụ tài chính tới tệp khách hàng một cách thuận tiện với chi phí hợp lý thông qua ứng dụng công nghệ số. “Với tỷ trọng người dân Việt Nam tiếp cận Internet trên 80%, dư địa để tăng tỷ lệ người trưởng thành tiếp cận sản phẩm, dịch vụ tài chính là rất lớn” TS. Nguyễn Đức Kiên nói.

TS. Hoàng Văn Ninh cũng cho hay, hoảng 50% tiểu thương cho biết họ thiếu kiến thức về quản lý tài chính cá nhân và doanh nghiệp. Điều này dẫn đến việc quản lý tài chính không hiệu quả, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.

Vì thế, theo TS. Hoàng Văn Ninh, cần nâng cao khả năng quản lý và kiến thức tài chính, đào tạo và hỗ trợ tiểu thương về kỹ năng quản lý tài chính và kinh doanh. Nhưng điều quan trọng hơn là khuyến khích tiểu thương áp dụng công nghệ trong kinh doanh; tăng cường sự hỗ trợ từ các nền tảng fintech, như hợp tác với các công ty fintech để cung cấp các giải pháp tài chính linh hoạt, giúp tiểu thương tiếp cận nguồn vốn nhanh chóng và tiện lợi, đồng thời giảm bớt rủi ro từ các hình thức tín dụng đen.

Đánh thuế mua vàng: Cẩn thận tránh thuế chồng thuế

Trước luồng ý kiến cần đánh thuế mua vàng để người dân “bớt yêu vàng”, các chuyên gia cho rằng, cần phải tính toán một cách có cơ sở, không thể đánh thuế một cách vô tội vạ, tránh “thuế chồng thuế”.

Để làm giảm bớt sức hấp dẫn của vàng, hiện nay, nhiều chuyên gia kiến nghị xem xét lại mức đánh thuế vàng cho phù hợp. PGS-TS Nguyễn Thị Mùi đề xuất, ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần sớm kiến nghị Bộ tài chính xây dựng các chính sách thuế đối với vàng.

Theo bà Mùi, giải pháp thuế sẽ góp phần giảm bớt nhu cầu vàng của một bộ phận nhà đầu tư, tác động tới tâm lý người tiêu dùng, khiến họ chuyển sang các kênh đầu tư khác, từ đó giúp kiểm soát giá vàng.

Thuế còn là công cụ quản lý đảm bảo tính công bằng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nói chung. Hiện nay, các lĩnh vực chứng khoánbất động sản... đều được điều tiết bằng thuế thu nhập cá nhân, nên cũng cần tính giải pháp phù hợp với vàng.

Dù vậy, ông Nguyễn Văn Phụng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hiệp hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (VAA), nguyên Phó vụ trưởng Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính) cho rằng, chính sách thuế với vàng hiện nay là vô cùng rõ ràng. Cần cân nhắc khi áp dụng thêm các loại thuế với vàng, bởi thuế không phải là chìa khóa vạn năng.

Thị trường hiện có 2 loại vàng chính, gồm vàng ngoại hối (do NHNN quản lý) và vàng trang sức. Với vàng ngoại hối (do NHNN thực hiện độc quyền nhập khẩu, nhằm tăng dự trữ ngoại hối) đang được áp thuế 0% vì vàng trong trường hợp này là tiền.

Còn với vàng trang sức - ngành kinh doanh có điều kiện - thuế nhập khẩu là dưới 3% và thuế giá trị gia tăng được áp dụng giống như hàng hóa thông thường (10%).

Hiện tại, các cơ sở kinh doanh vàng phải nộp thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp.

Cụ thể, Luật Thuế giá trị gia tăng quy định đánh thuế giá trị gia tăng vào giá trị tăng thêm do hoạt động sản xuất - kinh doanh, chế tác vàng, với thuế suất 10% nhân với chênh lệch giữa giá bán trừ đi giá mua. Nếu doanh nghiệp kinh doanh có lợi nhuận thì sẽ phải đóng cả thuế thu nhập doanh nghiệp.

Với hộ kinh doanh, nếu theo diện nộp thuế khoán thì hội đồng tư vấn thuế, xã, phường cùng chính quyền địa phương xác định mức doanh thu khoán để ấn định mức thuế khoán. Với hộ kinh doanh theo diện kê khai, thì cần đầy đủ chứng từ, hóa đơn và kê khai thuế như doanh nghiệp và nộp thuế bao gồm cả thuế thu nhập cá nhân với hoạt động kinh doanh và thuế giá trị gia tăng.

"Tôi cho rằng, cách quản lý như vậy là tốt và minh bạch, rõ ràng. Với những hộ kinh doanh nhỏ, mức doanh thu khoán có thể đâu đó còn có vấn đề, chưa phản ánh đúng doanh thu, song ngành thuế đang đẩy mạnh việc sử dụng hóa đơn điện tử, qua đó, dữ liệu sẽ chính xác hơn, thu thuế sẽ đúng hơn”, ông Phụng nói.

Cơn sốt vàng diễn ra từ đầu năm đến nay làm dấy lên nỗi lo “vàng hóa” nền kinh tế. Để người dân bớt lao vào nắm giữ vàng vật chất, nhiều chuyên gia đề xuất nên đánh thuế giao dịch vàng, giống như đánh thuế chuyển nhượng bất động sản, chuyển nhượng chứng khoán.

Dù vậy, nhiều chuyên gia lại cho rằng, cần thận trọng với đề xuất này. Theo ông Nguyễn Văn Phụng, người dân sở hữu vàng như một loại tài sản cá nhân. Thói quen tích trữ vàng, mua vàng làm của hồi môn cho đám cưới đã trở thành tập quán của người dân. Đó là nhu cầu chính đáng. Lâu nay, người dân đem bán vàng cho các cơ sở kinh doanh thu mua, chuyển đổi thành tiền thì không bị đánh thuế.

Đồng quan điểm, ông Phạm Xuân Hòe, nguyên Phó viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng (NHNN) phân tích, người dân mua vàng về để tích trữ bằng thu nhập của mình, họ đã làm việc và phải nộp thuế rất nhiều lần. Chính sách thuế với vàng hiện nay là đầy đủ. Nếu tiếp tục đánh thuế trên tổng giá trị mua vàng của người dân - tức đánh thuế tài sản cá nhân của người dân - là thuế chồng thuế.

Theo các chuyên gia, đánh thuế - dù với bất kỳ mặt hàng nào - cũng phải có cơ sở kinh tế, phải từ hoạt động sản xuất - kinh doanh, chứ không thể đánh thuế vô tội vạ.

Trên thực tế, chính sách thuế với vàng hiện nay là tương đối đầy đủ. Vấn đề đặt ra với thị trường vàng lâu nay là tình trạng trốn thuế. Vì vậy, chỉ cần thống kê chính xác và thu thuế đầy đủ là góp phần quản lý chặt chẽ thị trường vàng.

Đáng mừng là, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, từ ngày 15/6/2024, đơn vị nào không thực hiện hóa đơn điện tử kết nối với cơ quan thuế trong mua bán vàng sẽ bị rút giấy phép. Điều này sẽ tránh được thất thu thuế.

Quan trọng nhất là thông qua công cụ thuế sẽ làm minh bạch được các giao dịch, làm rõ danh tính người mua, người bán, khối lượng giao dịch…, từ đó, chống giao dịch bất hợp pháp, chống rửa tiền. Khi đó, cùng với các công cụ khác, thuế sẽ giúp NHNN quản lý thị trường vàng tốt hơn.

Để người dân bớt “đắm đuối” vào vàng, theo các chuyên gia, cần có giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo giá trị tiền đồng và kích thích sản xuất - kinh doanh phát triển. Có như vậy, dòng tiền sẽ chảy sang sản xuất - kinh doanh và các kênh đầu tư khác, thay vì chảy vào vàng.

Tín dụng kinh doanh bất động sản sẽ tăng khoảng 16-18% trong năm 2024

Theo VIS Ratings, tỷ lệ đòn bẩy của các chủ đầu tư tăng song khả năng tiếp cận vốn (tín dụng và trái phiếu) cải thiện sẽ giúp doanh nghiệp giảm bớt khó khăn về thanh khoản do áp lực nợ đáo hạn lớn trong năm 2024 - 2025.

Báo cáo mới của VIS Ratings cho thấy, trong quý I/2024, doanh thu và lợi nhuận của các chủ đầu tư tiếp tục sụt giảm. Tuy nhiên, với mặt bằng lãi suất thấp và số lượng Dự án được phê duyệt tăng từ cuối 2023, khả năng doanh số bán hàng và dòng tiền của các chủ đầu tư sẽ cải thiện nhẹ trong 12-18 tháng tới khi các dự án mới mở bán.

Nhu cầu nhà ở vẫn ở mức cao sẽ thúc đẩy doanh số bán hàng của các chủ đầu tư khi các dự án mới được mở bán. Trong quý I/2024, nhiều dự án mới được bán hết ngay khi ra mắt, các giao dịch trên thị trường thứ cấp hồi phục và giá nhà ở tiếp tục tăng tại Hà Nội (HN) và Hồ Chí Minh (HCM). Sự phát triển nhanh chóng của tầng lớp trung lưu tại Việt Nam, mức thu nhập cải thiện, và xu hướng sử dụng bất động sản như phương tiện tích lũy tài sản là những động lực chính hỗ trợ mạnh nhu cầu nhà ở trong những năm tới.

Khung pháp lý bất động sản mới sẽ hỗ trợ thúc đẩy tiến độ phát triển dự án và gia tăng nguồn cung nhà ở mới. Ba luật về bất động sản được phê duyệt có hiệu lực sớm từ ngày 1/8/2024 sẽ giúp đẩy nhanh phê duyệt pháp lý dự án và cải thiện nguồn cung từ 2025. Trong số các chủ đầu tư niêm yết, chỉ một số ít như Vinhomes, Khang Điền, Nam Long có thể triển khai dự án mới và ghi nhận doanh số bán hàng đáng kể trong quý I/2024. Nhiều chủ đầu tư vẫn đang gặp khó khăn pháp lý với các dự án tại Hà Nội và TP.HCM, dẫn đến nguồn cung nhà ở mới suy giảm ở các thành phố lớn.

“Chúng tôi kỳ vọng chính phủ sẽ ban hành thêm hướng dẫn về luật mới trong một vài tháng tới, điều này sẽ giúp các chủ đầu tư giải quyết các vấn đề về xác định giá đất và quyền sử dụng đất, từ đó tiếp cận được nguồn tài chính cho việc phát triển dự án mới”, chuyên gia nghiên cứu VIS Ratings nhận định.

Đặc biệt, các chuyên gia phân tích cũng cho rằng, việc tiếp cận nguồn vốn mới từ ngân hàng hoặc thị trường trái phiếu sẽ là yếu tố quan trọng giúp các chủ đầu tư duy trì được tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao và nghĩa vụ trả nợ đáo hạn lớn.

Tỷ lệ đòn bẩy của các chủ đầu tư sẽ duy trì ở mức cao khi các công ty này tăng cường sử dụng nợ vay để phát triển các dự án mới. Trong quý I/2024, tỷ lệ đòn bẩy của các chủ đầu tư niêm yết có xu hướng tăng, thể hiện bằng chỉ số Nợ vay/EBITDA tăng lên mức 3.4x từ mức nhỏ hơn 2x trong giai đoạn trước năm 2022. Các chủ đầu tư thường tận dụng dòng tiền trả trước từ khách hàng khi mở bán để tài trợ cho việc phát triển dự án. Tuy nhiên phần lớn các chủ đầu tư chưa thể mở bán dự án để tiếp cận nguồn vốn này, do đó sẽ phải sử dụng nợ vay mới.

Khả năng tiếp cận nguồn vốn mới cải thiện sẽ giúp giảm bớt khó khăn về thanh khoản do áp lực nợ đáo hạn lớn trong năm 2024 và 2025. Tại Việt Nam, chúng tôi kỳ vọng dư nợ ngân hàng cho vay kinh doanh bất động sản sẽ tăng 16-18% trong năm 2024.

Tổng lượng phát hành trái phiếu doanh nghiệp mới của các chủ đầu tư bất động sản ghi nhận sự phục hồi trong 5 tháng đầu năm 2024, và sẽ hưởng lợi từ tâm lý thị trường cải thiện. Ngoài ra, có nhiều doanh nghiệp bất động sản niêm yết công bố kế hoạch tăng vốn chủ sở hữu trong các kỳ đại hội cổ đông gần đây.

“Chúng tôi kỳ vọng khoảng 26.000 tỷ đồng vốn chủ sở hữu mới sẽ được huy động cho phát triển dự án hoặc để trả nợ đáo hạn. Trong khi đó, tại Trung Quốc, khả năng huy động và tái cấp vốn của các chủ đầu tư đã suy giảm do khả năng tiếp cận yếu đến nguồn vốn tín dụng ngân hàng và thị trường trái phiếu”, VIS Ratings cho hay.   

Áp dụng chữ ký điện tử: Khách hàng có nguy cơ gánh “mưa phí” khi giao dịch với ngân hàng

Theo dự thảo Nghị định về chữ ký điện tử và dịch vụ tin cậy, mỗi giao dịch ngân hàng điện tử như: gửi tiền, vay tiền, mua bán ngoại tệ… đều phải có chữ ký điện tử và phải mất phí để duy trì chữ kí số.

Dự thảo bất cập, khách hàng có nguy cơ gánh “mưa phí”

Hiệp hội ngân hàng Việt Nam góp ý Dự thảo Nghị định về chữ ký điện tử và dịch vụ tin cậy. Theo HIệp hội, quy định trong dự thảo Nghị định quy định như nêu tại công văn 2358/BTTTT-NEAC là chưa phù hợp với qui định của Luật Giao dịch điện tử 2023 và sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng như làm tăng chi phí cho người dân và doanh nghiệp khi thực hiện giao dịch điện tử với các tổ chức tín dụng.

Cụ thể, theo dự thảo, khách hàng (doanh nghiệp và cá nhân) phải thanh toán các khoản phí để được cấp, duy trì hiệu lực của chữ ký số với số tiền vô cùng lớn.

Khi Luật Giao dịch điện tử 2023 và dự thảo Nghị định có hiệu lực, người dân và doanh nghiệp giao dịch với ngân hàng trên môi trường điện tử phải mua chữ ký số của các tổ chức cung cấp chữ ký số công cộng và áp dụng vào các giao dịch trực tuyến với Ngân hàng sẽ dẫn đến việc tốn kém chi phí cho toàn thể khách hàng (ngân hàng không thể và không bao giờ chi trả chi phí này).

Theo ước tính một ngân hàng, chi phí chữ kí số có thể lên tới hàng ngàn tỷ đồng hàng năm, chi phí này sẽ được ngân hàng thu lại từ khách hàng (cá nhân & doanh nghiệp).  Hiện nay có khoảng gần 80% người Việt Nam trưởng thành có tài khoản ngân hàng và nhiều ngân hàng đã có trên 95% số lượng giao dịch được xử lý trên kênh số. Nếu theo quy định của dự thảo Nghị định, thì các loại nghiệp vụ chủ yếu của tổ chức tín dụng như nhận tiền tiết kiệm, nhận tiền gửi, cấp tín dụng, giao dịch ngoại tệ…đều yêu cầu có chữ ký điện tử khi giao kết giao dịch.

Theo báo cáo của 1 trong 4 Ngân hàng thương mại có vốn nhà nước thì đến thời điểm gửi Công văn này, số lượng khách hàng giao dịch trên kênh số của Ngân hàng thương mại có vốn nhà nước này ước tính khoảng 12 triệu khách hàng, với số lượng giao dịch 6,5-7 triệu giao dịch/ngày (cả năm khoảng 2,3 tỷ giao dịch, bình quân 500 giao dịch/giây), như vậy khi dự thảo Nghị định có hiệu lực, với mức chi phí khảo sát qua các CA trên thị trường từ 550.000-1.800.000 VND/năm thì hàng năm khách hàng của ngân hàng này phải chi trả dịch vụ CA Provider lên đến từ 6.600 – 21.600 tỷ đồng chưa kể các chi phí khác phát sinh liên quan đến đầu tư hạ tầng, phát triển, vận hành hệ thống nội bộ cho ngân hàng và trang cấp chứng thư số cho cán bộ trong nội bộ.

Một ngân hàng TMCP tư nhân lớn khác cho biết, hiện ngân hàng này đang có khoảng 10,2 triệu khách hàng, lượng giao dịch trung bình phát sinh khoảng 750 triệu giao dịch tài chính/năm, tương đương trung bình 500 giao dịch/giây (số lượng giao dịch mà hệ thống có thể phải xử lý trong một giây cũng là số lượng giao dịch tối thiểu mà các Công ty CA phải có khả năng xử lý).

Theo đó,  chi phí dự kiến phát sinh trong trường hợp toàn bộ các giao dịch trên phải sử dụng chữ ký số: Nếu mua chữ ký số theo năm: 800.000 đồng/ năm (Đơn giá trung bình của các nhà cung cấp CA/ Mobile CA), tổng mức chi phí để trang bị chữ ký số cho 10,2 triệu khách hàng là khoảng 8.160 tỷ đồng.

Nếu mua chữ ký số theo giao dịch: 2.500 đồng/lần ký (Đơn giá trung bình ký theo lần từ các nhà cung cấp Mobile CA), tổng mức chi phí để trang bị chữ ký số 1.875 tỷ đồng.

Chi  phí sửa đổi các hệ thống để có thể tích hợp việc sử dụng chữ ký số cũng như lưu trữ các giao dịch đã thực hiện: chưa có con số chính xác nhưng dự kiến sẽ trên 10 triệu đô la Mỹ.

Đây là mức chi phí vô cùng lớn nếu tính cả hệ thống các tổ chức tín dụng. Chi phí lớn này ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân và doanh nghiệp.

Nguy cơ ngân hàng đối mặt với rủi ro  phát sinh khiếu nại, tranh chấp với khách hàng

Theo Hiệp hội ngân hàng, các hoạt động khiếu nại, tranh chấp và tố tụng, xử lý thu hồi nợ trong quá trình cung cấp sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng hàng năm rất lớn, song khi Ngân hàng cần xuất trình các chứng cứ chứng minh về thao tác của Khách hàng, hiệu lực chữ ký số, chứng thư số hoặc các thông tin liên quan đến quá trình giao kết hợp đồng, văn kiện…

Ngân hàng sẽ phải đề nghị bằng văn bản gửi bên thứ 3 (bên cung cấp chữ ký số), như vậy vừa không đảm bảo tính kịp thời, phát sinh thêm thủ tục không đáng có bởi hệ thống công nghệ của các ngân hàng được đầu tư với số tiền vô cùng lớn đáp ứng đủ tiêu chuẩn quốc tế nếu được tạo lập chữ ký điện tử chuyên dùng cho khách hàng của mình.

Hệ thống bảo mật, xác thực của các bên cung cấp chữ ký số (với vốn điều lệ khoảng 30 tỷ trở lên) cũng chưa có các đánh giá được mức độ tương thích với hệ thống bảo mật, xác thực giao dịch, xác thực Khách hàng của từng Ngân hàng, dẫn đến tình trạng cùng một giao dịch Khách hàng có thể phải xác thực một số lần, giảm rất nhiều trải nghiệm của khách hàng, tăng thời gian giao dịch và gây cản trở việc thúc đẩy chuyển đổi số.

Ngoài ra, hoạt động giao dịch của Ngân hàng phụ thuộc hoàn toàn vào một hoặc một vài tổ chức thứ ba về cung cấp chữ ký số công cộng gây rủi ro rất lớn cho ngành ngân hàng

Cụ thể, theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước, các TCTD khi giao kết giao dịch với khách hàng trên môi trường điện tử phải sử dụng chữ ký điện tử, chữ ký số theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và của Luật Giao dịch điện tử bởi các giao dịch tài chính ngân hàng là các giao dịch đặc thù, đòi hỏi sự chính xác cao và đảm bảo giá trị, bảo mật về mặt chứng từ, chứng cứ chứng minh khi phát sinh tranh chấp, tố tụng...

Tuy nhiên, theo dự thảo Nghị định thì toàn bộ giao dịch của các TCTD trên môi trường điện tử hoàn toàn phụ thuộc vào 1 hoặc 1 số đơn cị cung cấp chữ ký số công cộng. Điều quan ngại đặt ra là liệu các tổ chức này có đảm bảo độ bảo mật, sức tải của hệ thống cấp và ký số... có đảm bảo thông suốt an toàn với số lượng giao dịch vô cùng lớn, hàng tỷ, chục tỷ giao dịch/năm. Vậy ai sẽ chịu trách nhiệm về hậu quả này khi các giao dịch bị chậm trễ hoặc ngừng trệ? Điều này ảnh hưởng tới mọi mặt của cuộc sống của người dân và doanh nghiệp và của chính TCTD. 

Hiện tại trên thị trường mới có một số tổ chức được cấp phép về cung cấp chữ ký số an toàn (khoảng trên 10 CA Providers được cấp phép cung cấp chữ ký số an toàn qua hình thức remote signing) như vậy cũng đồng nghĩa với việc khả năng cao một Tổ chức cung cấp chữ ký số công cộng sẽ quá tải, tiềm ẩn rủi ro hệ thống, kéo theo các hệ lụy trong quá trình cung cấp sản phẩm, dịch vụ.

Chưa kể, tính ứng dụng của quy định về chữ ký điện tử chuyên dùng không khả thi về mặt thực tiễn nếu phạm vi sử dụng bị hạn chế. Các mô hình chữ ký số tiên tiến trên thế giới mà Bộ Thông tin và Truyền thông đã giới thiệu với các Doanh nghiệp, TCTD trước đây tại các lần lấy ý kiến góp ý đối với Luật Giao dịch điện tử 2023 và Nghị định hướng dẫn, phần lớn các giao dịch với Ngân hàng đều áp dụng với chữ ký số và đều là các chữ ký số được cấp phát bởi chính TCTD, áp dụng cho Khách hàng của mình. Cũng chính là mô hình Chữ ký điện tử chuyên dùng đảm bảo an toàn đã được chính thống đưa vào Luật Giao dịch điện tử tại Việt Nam. Các chữ ký điện tử được áp dụng trong lĩnh vực Ngân hàng, đều là các chữ ký được miễn phí hoặc có mức phí tượng trưng rất thấp để hỗ trợ người dùng. 

Nguy cơ sinh trắc học bị “qua mặt”: Nhà băng không lơ là phòng thủ

Các ngân hàng áp dụng sinh trắc học từ ngày 1/7 để ngăn chặn lừa đảo. Song với sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo (AI), ChatGPT…, tin tặc vẫn có thể chọc thủng hàng rào công nghệ này. Bởi vậy, cuộc đua cập nhật công nghệ với các ngân hàng càng thêm nóng.

Sau chục ngày thực hiện xác thực sinh trắc học, hàng chục triệu tài khoản ngân hàng đã được làm sạch. Việc dùng ảnh tĩnh để “qua mặt” hệ thống xác thực sinh trắc học cũng đã được xử lý (trước đó, một số ngân hàng tắt tính năng xác thực do hệ thống bị quá tải).

Mặc dù vậy, các ngân hàng thừa nhận, ngay cả xác thực sinh trắc học cũng có nguy cơ bị “qua mặt”. Vì vậy, cả ngân hàng lẫn khách hàng phải luôn thận trọng khi giao dịch trên môi trường số.

Trên thực tế, chưa có trường hợp giả mạo sinh trắc học nào diễn ra thành công, song ông Nguyễn Văn Thứ, Tổng giám đốc An ninh mạng của Bkav cảnh báo, với sự bùng nổ của các ứng dụng mạng xã hội như hiện nay, kẻ xấu không khó để thu thập hình ảnh của một người rồi tạo ra các bản sao giả mạo hoàn hảo với đầy đủ đặc điểm sinh trắc học cá nhân để thực hiện các giao dịch trái phép, đặc biệt trong bối cảnh ChatGPT và AI đang phát triển rất nhanh.

Theo trung tá Triệu Mạnh Tùng, Phó cục trưởng An ninh mạng và Phòng chống tội phạm công nghệ cao (A05, Bộ Công an), hiện nay, các ngân hàng đều phải đầu tư hạ tầng và giải pháp công nghệ để đảm bảo quét khuôn mặt “sống” của khách hàng.

Tuy nhiên, người dùng vẫn sẽ phải đối mặt với một vài rủi ro, như là việc sử dụng deepfake để thực hiện vượt qua các biện pháp kỹ thuật để xác thực sinh trắc học của các ngân hàng.

“Chúng tôi đã trao đổi với các cơ quan, đơn vị để theo dõi chặt chẽ ngay từ ngày 1/7, nếu phát sinh các vụ lừa đảo, thì sẽ phải kiểm tra, đánh giá xem nguyên nhân là do lỗi của hệ thống, lỗi của ngân hàng, hay do các đối tượng đã có giải pháp vượt qua các rào cản công nghệ mà chúng ta triển khai để kịp thời ngăn chặn”, ông Tùng nói.

Các ngân hàng đang phải chạy đua cập nhật giải pháp công nghệ tiên tiến, kết hợp nhiều lớp bảo mật, trang bị công nghệ chống deepfake, chống gian lận trong xác thực sinh trắc học…

Với người tiêu dùng, các chuyên gia khuyến cáo, ngay cả trong trường hợp đã xác thực sinh trắc học thành công, khách hàng vẫn luôn phải bảo mật thông tin cá nhân, thường xuyên kiểm tra lịch sử giao dịch, thận trọng kiểm tra kỹ thông tin trước khi thực hiện mỗi giao dịch.

Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Tiến Dũng cho rằng, các ngân hàng không thể “làm lơ” câu chuyện xác thực sinh trắc học. Ngân hàng nào không truy được tài khoản lừa đảo chứng tỏ công nghệ ngân hàng đó kém và sẽ bị khách hàng rời bỏ, lựa chọn ngân hàng tốt hơn.

Mặc dù xác thực sinh trắc học và yêu cầu quét khuôn mặt mỗi lần giao dịch (trên 10 triệu đồng) gây phiền hà cho người dùng, song các chuyên gia cho rằng, đây là giải pháp cần thiết để bảo vệ chủ tài khoản.

Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty luật ANVI nhận định, xác thực sinh trắc học có nghĩa là khách hàng đang tự bảo vệ chính mình. “Việc người dân đồng lòng thực hiện xác thực giao dịch ngân hàng thông qua sinh trắc học không chỉ là hành động tự bảo vệ cá nhân, mà còn giúp ngăn chặn vấn nạn tội phạm công nghệ, bảo vệ cho hệ thống ngân hàng, cho cộng đồng, xã hội. Về lâu dài, đây sẽ là biện pháp đem lại sự thuận tiện, chứ không phải rủi ro, phiền toái cho khách hàng”, ông Đức nói.

Đến nay, nỗi lo hệ thống xác thực sinh trắc học bị qua mặt vẫn chưa xảy ra, song các ngân hàng đều phải chuẩn bị sẵn kịch bản để đối phó.

Ông Lưu Danh Đức, Phó tổng giám đốc phụ trách Khối Công nghệ thông tin của Ngân hàng SHB nhận định, sau Covid-19, cùng với sự bùng nổ thanh toán số, lừa đảo trên mạng cũng gia tăng và ngày càng tinh vi. Hacker thu thập hình ảnh, video, giọng nói, thông tin cá nhân của khách hàng, sau đó sử dụng AI để hoán đổi khuôn mặt, tạo video deepfake hình ảnh của nạn nhân. Do đó, ngoài tuyên truyền thường xuyên tới khách hàng, SHB cũng xây dựng hệ thống phòng thủ để ngăn ngừa tấn công mạng.

Riêng đối với việc ngăn chặn giả mạo bằng deepfake, SHB đang tiến hành sử dụng AI, Machine Learning; áp dụng các giải pháp sinh trắc học nâng cao.

“Vỏ quýt dày thì có móng tay nhọn. Chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu hành vi của tội phạm, sử dụng công nghệ để phòng chống lừa đảo và giảm thiệt hại cho khách hàng”, ông Lưu Danh Đức nói.

Để việc xác thực sinh trắc học được thực hiện bài bản, thống nhất trong hệ thống, đại diện BIDV cho rằng, Ngân hàng Nhà nước cần hướng dẫn các ngân hàng từng bước chuẩn hóa các tiêu chuẩn về sinh trắc học và xác thực định danh điện tử, từ đó xây dựng bộ tiêu chuẩn chung để các ngân hàng áp dụng. 

Ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro chậm nhất 7 ngày sau khi kết thúc tháng

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 86/2024/NĐ-CP về mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro, việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chúc tín dụng (TCTD) và trường hợp TCTD phân bổ lãi phải thu phải thoái.

Nợ nhóm 5, ngân hàng phải trích lập 100%

Nghị định quy định tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với nợ được phân loại từ nợ nhóm 1 đến nợ nhóm 5 của tổ chức tín dụng (trừ tổ chức tài chính vi mô), chi nhánh ngân hàng nước ngoài như sau: Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn): 0%; Nhóm 2 (Nợ cần chú ý): 5%; Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn): 20%; Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ): 50%; Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn): 100%.

Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với nợ được phân loại từ nợ nhóm 1 đến nợ nhóm 5 của tổ chức tài chính vi mô như sau: Nhóm 1: 0%; Nhóm 2: 2%; Nhóm 3: 25%; Nhóm 4: 50%; Nhóm 5: 100%.

Với trích lập dự phòng chung, Nghị định quy định đối với tổ chức tín dụng (trừ tổ chức tài chính vi mô), chi nhánh ngân hàng nước ngoài, số tiền dự phòng chung phải trích được xác định bằng 0,75% tổng số dư các khoản nợ được phân loại từ nợ nhóm 1 đến nợ nhóm 4, trừ các khoản sau đây:

- Tiền gửi tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của pháp luật và tiền gửi tại tổ chức tín dụng ở nước ngoài;

- Khoản cho vay, mua có kỳ hạn giấy tờ có giá giữa các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam;

- Khoản mua chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước;

- Khoản mua bán lại trái phiếu Chính phủ trên thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật về phát hành, đăng ký, lưu ký, niêm yết và giao dịch công cụ nợ của Chính phủ trên thị trường chứng khoán;

- Các khoản nợ khác phát sinh từ hoạt động quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định này giữa các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam theo quy định của pháp luật.

Đối với tổ chức tài chính vi mô, số tiền dự phòng chung phải trích được xác định bằng 0,5% tổng số dư các khoản nợ được phân loại từ nợ nhóm 1 đến nợ nhóm 4 (không bao gồm tiền gửi tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của pháp luật).

Ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro chậm nhất 7 ngày sau khi kết thúc tháng

Nghị định quy định Ngân hàng thương mại, TCTD phi ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện trích lập dự phòng rủi ro như sau:

Trong 7 ngày đầu tiên của tháng, ngân hàng thương mại, TCTD phi ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện trích lập dự phòng cho thời điểm cuối ngày cuối cùng của tháng trước liền kề căn cứ nhóm nợ có mức độ rủi ro cao hơn giữa: Nhóm nợ theo kết quả tự phân loại nợ cho thời điểm cuối ngày cuối cùng của tháng trước liền kề theo quy định của Thống đốc NHNN về phân loại tài sản có trong hoạt động của ngân hàng thương mại, TCTD phi ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; và Nhóm nợ đã được điều chỉnh theo nhóm nợ của danh sách khách hàng do Trung tâm Thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam (CIC) cung cấp theo quy định của Thống đốc NHNN về phân loại tài sản có trong hoạt động của ngân hàng thương mại, TCTD phi ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại thời điểm gần nhất.

Nghị định nêu rõ đối với tháng đầu tiên của quý, trong 03 ngày kể từ ngày nhận được danh sách khách hàng do CIC cung cấp cho thời điểm cuối ngày cuối cùng của tháng trước liền kề, ngân hàng thương mại, TCTD phi ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài căn cứ kết quả phân loại nợ đã được điều chỉnh theo nhóm nợ của danh sách khách hàng do CIC cung cấp theo quy định của Thống đốc NHNN về phân loại tài sản có trong hoạt động của ngân hàng thương mại, TCTD phi ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài để điều chỉnh số tiền trích lập dự phòng rủi ro cho thời điểm cuối ngày cuối cùng của tháng trước liền kề và thể hiện số tiền trích lập dự phòng rủi ro này trên báo cáo tài chính cho thời điểm cuối ngày cuối cùng của tháng trước liền kề.

TCTD là hợp tác xã, tổ chức tài chính vi mô thực hiện trích lập dự phòng rủi ro như sau: Trong 07 ngày đầu tiên của tháng, TCTD là hợp tác xã, tổ chức tài chính vi mô căn cứ kết quả phân loại nợ theo quy định của Thống đốc NHNN về phân loại tài sản có trong hoạt động của TCTD là hợp tác xã, tổ chức tài chính vi mô để thực hiện trích lập dự phòng rủi ro cho thời điểm cuối ngày cuối cùng của tháng trước liền kề. 

Bối rối về quy định cấm “gắn kèm” bảo hiểm, ngân hàng - doanh nghiệp mong thông tư hướng dẫn

Các ngân hàng, doanh nghiệp bảo hiểm đang có cách hiểu khác nhau về quy định cấm tổ chức tín dụng bán bảo hiểm không bắt buộc gắn kèm với sản phẩm dịch vụ dưới mọi hình thức (khoản 5 Điều 15 Luật Các tổ chức tín dụng 2024).

Luật cho phép ngân hàng bán bảo hiểm, băn khoăn khái niệm “gắn” kèm

Do thiếu hướng dẫn, hơn một tuần qua (kể khi Luật Các tổ chức tín dụng 2024 có hiệu lực), một số ngân hàng đã tạm dừng triển khai hoạt động đại lý bảo hiểm.

 Điều 113 Luật Các tổ chức tín dụng quy định: “Ngân hàng thương mại được thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, phù hợp với phạm vi hoạt động đại lý bảo hiểm theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước”. Như vậy, Luật Các tổ chức tín dụng 2024 đã cho phép ngân hàng thương mại được tư vấn, chào bán bảo hiểm. Tuy vậy, khoản 5 Điều 15 cấm ngân hàng chào bán bảo hiểm “gắn" với sản phẩm dịch vụ ngân hàng dưới mọi hình thức. Hiện tại, nhiều ngân hàng, doanh nghiệp đang có cách hiểu khác nhau về khái niệm "gắn" này.

ại diện ABIC chi nhánh Thăng Long và đại diện Agribank Lộc Bình chi trả quyền lợi bảo hiểm cho thân nhân khách hàng gặp rủi ro.
ại diện ABIC chi nhánh Thăng Long và đại diện Agribank Lộc Bình chi trả quyền lợi bảo hiểm cho thân nhân khách hàng gặp rủi ro.

Lãnh đạo một công ty bảo hiểm cho hay, không chỉ ngân hàng, công ty bảo hiểm, mà ngay cả cơ quan thanh tra tại địa phương cũng có cách hiểu khác nhau về quy định trên, đặc biệt là khái niệm “gắn”.

Có luồng ý kiến cho rằng, bắt buộc mua bảo hiểm khi vay vốn thì mới được tính là gắn kèm, còn giới thiệu, tư vấn về dịch vụ bảo hiểm thì không được tính là gắn kèm, vì hai dịch vụ này là độc lập với nhau. Tuy vậy, luồng ý kiến còn lại thì cho rằng, cấm gắn kèm có nghĩa là khi làm hồ sơ cho khách hàng vay vốn, ngân hàng cũng không được tư vấn, mời chào gì về sản phẩm bảo hiểm.

“Chúng tôi có bàn tư vấn bảo hiểm tại tất cả các điểm giao dịch của ngân hàng, bán sản phẩm bảo hiểm độc lập với sản phẩm tín dụng. Vậy chúng tôi tư vấn thông tin cho khách hàng, quy trình bán rất rõ ràng, khách hàng được tự do lựa chọn mua hoặc không. Vậy thì có tính là gắn kèm? Chúng tôi đã đi hỏi nhiều nơi, cả cơ quan quản lý lẫn chuyên gia luật, nhưng không ai dám đưa ra câu trả lời thỏa mãn được tất cả. Chúng tôi tham vấn ý kiến của hơn 20 ngân hàng thì mỗi ngân hàng lại có một cách hiểu khác nhau về khái niệm ‘gắn kèm” này”, lãnh đạo một công ty bảo hiểm cho biết.

Cách hiểu khác nhau này khiến các doanh nghiệp bảo hiểm và nhiều ngân hàng bối rối và mong mỏi Ngân hàng Nhà nước ban hành văn bản hướng dẫn. Được biết, khoản 5 Điều 15 Luật Các tổ chức tín dụng lại không nằm trong danh mục điều khoản cần được ban hành hướng dẫn thi hành Luật. Tuy vậy, trong bối cảnh nhiều doanh nghiệp, ngân hàng vướng mắc như hiện nay, Ngân hàng Nhà nước và Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần có văn bản giải thích để doanh nghiệp hiểu và thực hiện Luật.  

Được biết, do có cách hiểu khác nhau về khái niệm “gắn kèm”, nhiều ngân hàng đã dừng bán bảo hiểm, kể cả bảo hiểm phi nhân thọ, khiến doanh thu của các doanh nghiệp giảm sút mạnh ngay từ khi Luật có hiệu lực.

Đại diện Công ty Bảo hiểm BIC cho hay, chỉ riêng 2 ngày đầu tiên trong tháng 7/2024, doanh số bán bảo hiểm qua ngân hàng của công ty giảm tới 50%. Nguyên nhân chính là nhiều chi nhánh ngân hàng tạm dừng bán bảo hiểm và đợi hướng dẫn cụ thể.

Theo ông Nguyễn Hồng Phong, Tổng giám đốc Công ty bảo hiểm Agribank (ABIC), 10 năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng bình quân của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ từ 10-15%. Nhưng năm 2023, tăng trưởng thị trường bảo hiểm phi nhân thọ chỉ còn hơn 2%, chưa bao giờ  ngành bảo hiểm gặp “cú sốc” và khủng hoảng lớn như hiện tại.   

Cần phân loại bảo hiểm để quản lý đúng

Tại Việt Nam, lùm xùm liên quan đến bảo hiểm nhân thọ năm 2023 khiến dư luận có cái nhìn xấu về bảo hiểm. Bảo hiểm phi nhân thọ vì vậy cũng bị “vạ lây” dù không liên quan gì đến các lùm xùm này. Hơn thế nữa, bảo hiểm phi nhân thọ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong bảo vệ an toàn dòng vốn ngân hàng cũng như bảo vệ khách hàng.

Bà Lê Thị Quỳnh Hoa, Phó tổng giám đốc Bảo hiểm VietinBank chia sẻ, sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ nhằm bảo vệ hoạt động an toàn của hệ thống ngân hàng và khách hàng vay vốn. Đó là các sản phẩm bảo hiểm bảo vệ tài sản đảm bảo như: xe cộ, nhà xưởng, máy móc thiết bị và sức khỏe, tính mạng của người vay. Sau khi vay vốn, chẳng may khách hàng gặp rủi ro, hoặc hàng hóa bị mất mát, bảo hiểm đứng ra chi trả toàn bộ khoản vay đó thay cho khách hàng. Như vậy, ngân hàng không bị nợ xấu, hệ thống hoạt động an toàn; khách hàng lại không mất đi tài sản lớn.

Đặc biệt, trong lĩnh vực nông nghiệp - lĩnh vực rất dễ bị tổn thương bởi thiên tai,  dịch bệnh - nếu không được bảo hiểm, người nông dân rất dễ rơi vào cảnh tái nghèo. Việc tham gia bảo hiểm không chỉ bảo vệ người nông dân mà còn giúp ngân hàng yên tâm cho vay.

“Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, cũng có quyền được phòng vệ rủi ro. Bảo hiểm là công cụ rất quan trọng, giúp ngân hàng phòng vệ rủi ro. Nếu không có bảo hiểm, rất nhiều trường hợp ngân hàng sẽ không dám cho vay vì lo ngại nợ xấu”, đại diện một ngân hàng chia sẻ.

Những lùm xùm về bảo hiểm phi nhân thọ, đặc biệt là bảo hiểm liên kết đầu tư thời gian qua buộc cơ quan quản lý phải siết chặt hơn nữa hoạt động chào bán bảo hiểm của các ngân hàng. Điều này là hoàn toàn đúng đắn. Tuy vậy, theo các chuyên gia, doanh nghiệp và ngân hàng, không nên đánh đồng bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ để có cơ chế quản lý phù hợp.

"Cần làm rõ các tồn tại của ngành bảo hiểm để trả lại công bằng cho các doanh nghiệp bảo hiểm làm ăn chân chính, không nên đánh đồng tất cả loại bảo hiểm là xấu. Hi vọng cơ quan chức năng sẽ sớm ban hành văn bản, thông tư hướng dẫn để doanh nghiệp ,ngân hàng dễ dàng thực hiện”, đại diện một doanh nghiệp bảo hiểm kiến nghị.

Được biết, trong 10 năm qua, chỉ tính riêng 3 công ty bảo hiểm phi nhân thọ trực thuộc ngân hàng Agribank (ABIC), VietinBank (VBI), BIDV (BIC) đã chi trả bồi thường hơn 20.000 tỷ đồng cho các khách hàng gặp rủi ro.   

Xem thêm tại baodautu.vn