Quản lý tài sản mã hóa, tài sản số: Tạo nguồn thu mới cho ngân sách
Chống thất thu thuế, chảy máu ngoại tệ
Thống kê của Cổng thanh toán tiền số Tripple-A công bố tháng 6/2024 cho thấy, Việt Nam có 20,9 triệu người sở hữu tiền kỹ thuật số (chủ yếu là tiền ảo/tiền mã hóa không chính thức) trong năm 2023.
Với con số này, Việt Nam đứng thứ 4 thế giới (sau Ấn Độ, Trung Quốc, Mỹ) về số lượng người sở hữu tiền số nhưng đứng thứ 2 về tỷ lệ người sở hữu tiền số khi chiếm 21,2% dân số, cao hơn Mỹ (ở vị trí thứ ba với 15,6%). Tại Việt Nam cũng đã hình thành hệ sinh thái đầu tư và cung cấp dịch vụ liên quan tới tiền kỹ thuật số, như các dự án Blockchain, ví số, nền tảng hỗ trợ huy động vốn từ token/NFT (tài sản số)…
Tuy nhiên, ở Việt Nam, tài sản mã hóa, tài sản số chưa được đề cập đến như một đối tượng quản lý cụ thể trong bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào và cũng chưa có quy định cụ thể của pháp luật để điều chỉnh những vấn đề liên quan đến tài sản mã hóa, tài sản số. Các hoạt động như khai thác, chuyển nhượng, kinh doanh, mua bán tài sản mã hóa, tài sản số hiện tại vẫn không bị cấm, nhưng không được pháp luật bảo vệ.
Trong khi đó, rủi ro liên quan tới các loại tài sản mã hóa, tài sản số, cũng như nguy cơ sử dụng tài sản mã hóa cho hoạt động tội phạm (rửa tiền, tài trợ khủng bố, chuyển tiền bất hợp pháp, trốn thuế, lừa đảo...) rất lớn vì tài sản mã hóa có tính ẩn danh, hoạt động phân tán, không chịu sự quản lý của bất kỳ cơ quan, tổ chức nào.
Do vậy, việc đưa ra các quy định pháp lý liên quan đến quản lý tài sản mã hóa cũng góp phần quan trọng bảo vệ nhà đầu tư, tăng cường khả năng thu thuế trên các giao dịch tài sản mã hóa, nâng cao khả năng kiểm soát các hoạt động rửa tiền, giảm thiểu rủi ro tài trợ khủng bố, quản lý tốt hơn dòng vốn chảy ra khỏi quốc gia.
Theo Luật sư Trương Thanh Đức - Giám đốc Công ty Luật ANVI, khuôn khổ pháp lý cho phép tài sản số, tài sản mã hóa được giao dịch chính thức sẽ tạo ra nguồn thu đáng kể từ thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập…, vì quy mô, tần suất, khối lượng giao dịch của thị trường tài sản số, tài sản mã hóa ở Việt Nam là rất lớn.
Đông thời, Luật sư Đức cũng “rất tán thành” với quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm tại cuộc làm việc với Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương mới đây, liên quan đến quản lý đồng tiền số, đó là: Không nên chậm trễ, không để mất cơ hội, không tạo khoảng cách hoặc khu biệt với các hình thái tài chính mới cũng như những phương thức giao dịch hiện đại. Tổng Bí thư cũng nhất trí với đề xuất của Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương về việc cần sớm quản lý đồng tiền số, tiền ảo, tiền mã hóa dưới dạng một loại tài sản ảo để tránh các tác động tiêu cực đến nền kinh tế và các vấn đề xã hội, đồng thời giúp đóng góp giá trị cho kinh tế đất nước.
“Đây là một bước đi cần thiết, thể hiện quan điểm đổi mới, bảo đảm tự do kinh doanh, qua đó thu hút đầu tư nước ngoài. Thực chất, tiền số gần như là xu thế để đáp ứng nhu cầu đầu tư kinh doanh của người dân. Khi có khung pháp lý cho nó sẽ giúp hạn chế việc người dân phải đi mua bán ở nước ngoài, giảm rủi ro “chảy máu ngoại tệ”, ông Đức bình luận.
Cần có chính sách thuế phù hợp
Việc sớm ban hành, hoàn thiện khung pháp lý quản lý các hoạt động liên quan đến tài sản số, tài sản mã hóa sẽ giúp chuyển hóa giá trị của các loại hình tài sản này và các tổ chức cung ứng từ kinh tế ngầm sang nền kinh tế chính thức, gia tăng thu thuế, giúp bảo vệ quyền lợi người dùng, góp phần chống rửa tiền và khủng bố.
Trong đó, thuế là một trong những công cụ điều tiết hữu hiệu được nhiều quốc gia sử dụng trong quản lý các giao dịch tài sản số, tài sản mã hóa. Qua rà soát cho thấy, các quốc gia có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong đánh thuế tài sản số, tài sản mã hóa và đánh thuế giao dịch tài sản ảo, tài sản số. Mỗi một quốc gia đánh mức thuế khác nhau cho các giao dịch tiền ảo, tiền số khác nhau. Một số quốc gia đánh thuế đối với tiền ảo, tiền số như một loại tài sản và một loại thu nhập cá nhân/doanh nghiệp, trong khi đó, một số quốc gia đang không đánh thuế đối với tài sản ảo, tài sản mã hóa, tài sản thuế và giao dịch các loại hình tài sản này.
Tuy nhiên, đối với Việt Nam, xây dựng chính sách thuế đối với các giao dịch tài sản mã hóa, tài sản số đang phải đối mặt với nhiều thách thức do các đặc điểm đặc biệt, tốc độ đổi mới công nghệ nhanh chóng và tính chất phi tập trung của các loại tài sản này.
Theo ThS. Lê Thị Lệ Hằng – Giám đốc Chiến lược Công ty Cổ phần Chứng khoán SSI, việc giảm thiểu rủi ro về thuế từ các giao dịch liên quan đến tài sản mã hóa, tài sản số đòi hỏi sự minh bạch và khuôn khổ luật thuế có thể dự đoán được và phù hợp với các quy định quốc tế. Trong khi luật thuế thường áp dụng cho tài sản mã hóa, tài sản số dựa trên đặc điểm pháp lý chung của chúng. Do vậy, luật thuế có thể cần được điều chỉnh thêm để mang lại sự rõ ràng và chắc chắn, đồng thời để đạt được hiệu quả cho một quốc gia.
“Tuy nhiên, bản chất phức tạp và không ngừng phát triển của tài sản mã hóa, tài sản số đòi hỏi phải có quy định bổ sung cho các luật thuế hiện hành một cách kịp thời và toàn diện hướng dẫn cho người nộp thuế để đảm bảo tính minh bạch và khả năng dự đoán”, bà Hằng cho hay.
Xem thêm tại tapchitaichinh.vn