Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), việc tiếp tục luật hóa các quy định tại Nghị quyết 42 nhằm tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ về xử lý nợ xấu, đảm bảo phù hợp với thực tiễn, xử lý các vướng mắc, khó khăn đã và đang cản trở tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ thực hiện các quyền hợp pháp của mình trong việc xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, gián tiếp ảnh hưởng đến khả năng xoay vòng vốn cũng như tiếp cận tín dụng với chi phí hợp lý của người dân và doanh nghiệp.

Ba chính sách nổi bật

Việc xây dựng chính sách phải đảm bảo cân bằng giữa quyền lợi hợp pháp của tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ với các quyền hợp pháp của bên bảo đảm tài sản, tránh tạo ra sự bất đối xứng giữa bên cho vay và bên đi vay.

Sửa Luật Các tổ chức tín dụng, luật hoá Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu
Sửa Luật Các tổ chức tín dụng, luật hoá Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu. Ảnh minh họa.

Một là, luật hóa quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Theo NHNN, điều này nhằm xử lý vướng mắc của các tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, xử lý nợ xấu, nhằm đảm bảo cân bằng giữa quyền của chủ nợ và các quyền lợi hợp pháp của bên bảo đảm.

Ban hành theo thủ tục rút gọn, gấp rút thông qua tháng 5/2025

Về quan điểm xây dựng luật, NHNN đề nghị tiếp tục luật hóa các quy định tại Nghị quyết 42 đã phát huy tốt hiệu quả khi Nghị quyết 42 có hiệu lực, trong đó bao gồm ba điểm nổi bật. NHNN đề xuất thời gian trình Quốc hội khóa XV cho ý kiến và thông qua tại kỳ họp thứ 9 (tháng 5/2025) theo quy trình một kỳ họp và soạn thảo theo trình tự, thủ tục rút gọn.

“Các vướng mắc này phát sinh từ trường hợp người đang giữ tài sản không giao tài sản, tổ chức mua bán, xử lý nợ, tổ chức tín dụng phải khởi kiện và chờ thi hành bản án, quyết định của Tòa án theo Điều 301 Bộ Luật Dân sự 2015” - NHNN nêu rõ.

Cùng với đó, hiện pháp luật mới chỉ ghi nhận quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc người đang giữ tài sản không giao tài sản để bên nhận bảo đảm xử lý tài sản bảo đảm mà không quy định trực tiếp quyền thu giữ tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm.

"Việc thiếu quy định này đã gây khó khăn rất lớn đến quyền xử lý tài sản bảo đảm của tổ chức mua bán, xử lý nợ và tổ chức tín dụng vì tổ chức mua bán, xử lý nợ cũng như các tổ chức tín dụng không thể thực hiện việc thu giữ nếu các chủ tài sản không đồng thuận, cố tình chống đối, thậm chí tạo ra các tranh chấp khác liên quan đến tài sản bảo đảm nhằm kéo dài thời gian xử lý tài sản bảo đảm" - NHNN phân tích.

Hai là, luật hóa quy định về kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án.

Khi quy định này không được luật hóa tại Luật Các tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ tiếp tục gặp khó khăn do tài sản bảo đảm có thể bị kê biên để thi hành án, kể cả để thực hiện các nghĩa vụ không phải thuộc trường hợp thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ; điều này ảnh hưởng lớn đến quyền lợi chủ nợ của các tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ.

Ba là, luật hóa quy định về hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự và bổ sung quy định về hoàn trả tài sản bảo đảm là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.

Theo đó, NHNN đề xuất quy định sau khi hoàn tất thủ tục xác định chứng cứ và xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm hoàn trả vật chứng trong vụ án hình sự là tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo đề nghị của bên nhận bảo đảm là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu.

“Ba chính sách được luật hóa phải được xác định rõ ràng nội dung, phương án sửa đổi, bổ sung và đánh giá tác động cụ thể; đồng thời đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất giữa các quy định của pháp luật" - NHNN nêu rõ.

Quy mô nợ xấu phình to qua các năm

Diễn biến nợ xấu phức tạp đặt ra bài toán cho các ngân hàng khi phải cân đối giữa tăng trưởng tín dụng và kiểm soát rủi ro. Tính riêng trong năm 2024, các ngân hàng trích lập thêm 133.237 tỷ đồng trong tổng chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, tăng 8,1% so với năm trước, trong khi năm 2022-2023 chỉ tăng lần lượt 0,8% và 2,6%. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu toàn ngành cải thiện tích cực, đạt mức 91% vào cuối năm.

Sửa Luật Các tổ chức tín dụng, luật hoá Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu
Quy mô nợ xấu năm 2024 tăng thêm 15,85%. Ảnh tư liệu.
Thống kê từ Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho thấy, trong năm 2022, nợ xấu tăng gần 36% so với năm trước, năm 2023 mức tăng tiếp tục lên đến 45%. Đến năm 2024, tốc độ tăng trưởng nợ xấu bắt đầu hạ nhiệt, chỉ còn 15,85%. Đến cuối năm 2024, tỷ lệ nợ xấu đã giảm nhẹ xuống 1,93%.

Trao đổi gần đây, lãnh đạo Agribank từng nhận định, việc thực hiện mục tiêu đưa tỷ lệ nợ xấu, nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu xuống dưới 3% gặp rất nhiều thách thức.

Việc xử lý tài sản bảo đảm, thu hồi nợ xấu của ngành ngân hàng cũng như Agribank gặp nhiều vướng mắc, chưa được luật hóa đầy đủ. Vì vậy, Agribank đề nghị Chính phủ, Quốc hội và các cấp có thẩm quyền có cơ chế, quy định phù hợp về xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, hỗ trợ các tổ chức tín dụng có cơ sở pháp lý để xử lý triệt để nợ xấu.

Lãnh đạo ngân hàng BIDV cũng mong mỏi Chính phủ chỉ đạo sớm hoàn thiện khung pháp lý, nhất là luật hóa các nội dung phù hợp với thực tiễn, đã được thực tiễn kiểm chứng trong Nghị quyết 42 của Quốc hội về xử lý nợ xấu, quyết liệt đẩy nhanh cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém, sàng lọc, lành mạnh hóa hệ thống và giảm cạnh tranh không lành mạnh. Những điều này sẽ tạo điều kiện cho chúng ta kéo giảm lãi suất và có thể tăng thêm nguồn vốn lưu chuyển trong nền kinh tế.

Việc xử lý tài sản bảo đảm của tổ chức mua bán, xử lý nợ, tổ chức tín dụng bị kéo dài làm ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả của việc xử lý nợ xấu, dẫn đến khó có thể khơi thông được nguồn vốn của hệ thống ngân hàng, làm ảnh hưởng đến mức độ an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng và là một trong những nguyên nhân làm hạn chế việc tiếp cận tín dụng của khách hàng, hạn chế khả năng tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng của nền kinh tế./.